phân tích khổ 2 bài đoàn thuyền đánh cá
- Cảm hứng lãng mạn là đòn bẩy cho nhà thơ phát hiện những vẻ đẹp lộng lẫy của cảnh đánh cá trên biển trong đêm trăng với niềm vui phơi phới, khỏe khoắn của người lao động làm chủ cuộc đời, làm chủ trời biển quê hương. - Cho nên đoàn thuyền ra khơi tìm luồng cá với một tư thế mới, đẹp một cách hùng tráng và thơ mộng:
Câu 1: Viết một đoạn văn phân tích khổ đầu bài thơ Đoàn thuyền đánh cá. Bài làm: "Đoàn thuyền đánh cá" là bài thơ xuất sắc, tiêu biểu cho hồn thơ khỏe khoắn của Huy Cận sau Cách mạng tháng Tám. Với khổ thơ đầu, tác giả đã mỏ ra một hình ảnh đẹp về đoàn
Toàn bộ các dạng bài nghị luận văn học "Đoàn Thuyền Đánh Cá"- Huy Cận lớp 9 ôn thi lớp 10 dễ dàng và đầy đủ theo hệ thống ôn tập. Bài tham khảo 2: Đề 2: phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá Bài ca lao động khép lại trong khổ thơ
Phân tích hai khổ thơ đầu và cuối trong bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" Gửi bởi tôn tiền tử ngày 22/01/2015 23:32 Có 2 người thích: , Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là một trong những bài thơ hay của Huy Cận sáng tác sau năm 1945. Đài thơ thể hiện tình yêu quê hương, niềm
Phân tích đoạn Thúy Kiều báo ân báo oán. Từ lời của Kiều nói với Thúc Sinh có thể thấy nàng rất trọng tấm lòng và sự giúp đỡ mà Thúc Sinh đã dành cho nàng trong cơn hoạn nạn. Thúc Sinh đưa Kiều ra khỏi lầu xanh, cứu nàng thoát cảnh đời ô nhục, có những tháng ngày
Site De Rencontre Franco Espagnol Gratuit. "Đoàn thuyền đánh cá" là bài thơ đặc sắc viết về hình ảnh người lao động vùng biển. Ngoài xem phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá, để có thêm những cảm nhận khác về tác phẩm, các em có thể tham khảo bài Phân tích khổ 2 của bài thơ Đoàn thuyền đánh cá trên nhé! Bài viết liên quan Phân tích hai khổ đầu bài thơ Đoàn thuyền đánh cá hay nhất tuyển chọn Phân tích khổ cuối Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận hay nhất tuyển chọn Phân tích khổ thơ đầu bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận hay nhất ngắn gọn Đoạn văn phân tích khổ 1 bài Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận hay nhất ngắn gọn Phân tích khổ thơ đầu bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận hay nhất Đề bài Phân tích khổ 2 của bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy CậnNội dung bài viếtI. Dàn Đoạn văn Bài văn mẫu. 1. Bài mẫu số 1. 2. Bài mẫu số ý phân tích khổ 2 Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận ngắn gọn hay nhất I. Dàn ý Phân tích khổ 2 của bài thơ Đoàn thuyền đánh cá ngắn gọn1. Mở bài- Giới thiệu khái quát về tác giả Huy Cận những nét khái quát về cuộc đời, con người, các sáng tác tiêu biểu, đặc điểm sáng tác,...- Giới thiệu khái quát về bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" hoàn cảnh ra đời, xuất xứ, khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật,...- Giới thiệu vấn đề phân tích khổ 2 bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá".2. Thân bài- Hai câu thơ đầu+ "Hát rằng" gợi lên niềm vui sướng, hạnh phúc ngập tràn của những người dân làng chài và là sự hứa hẹn một chuyến ra khơi bội thu.+ Thủ pháp liệt kê "cá bạc", "cá thu" cùng biện pháp so sánh cá thu với "đoàn thoi" dường như tác giả đã cất lên lời ca về sự giàu có của biển Câu thơ "Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng"+ "Đêm ngày" đặt ở đầu câu thơ như khẳng định tính liên tục.+ Không kể ngày đêm những loài cá ấy vẫn cùng nhau "dệt" nên một tấm lưới với "muôn luồng sáng" giữa biển cả mênh mông.+ Gợi lên những vệt nước lấp lánh được tạo nên khi đoàn cá bơi lội dưới ánh trăng.+ Thể hiện được không khí lao động hăng say của người lao động- Câu thơ kết thúc khổ thơ+ Câu thơ như một ca, một lời mời gọi thiết tha và trìu mến đối với những đàn cá+ Ẩn sau lời mời gọi thiết tha ấy chính là ước mơ, là mong muốn đánh bắt được nhiều hải sản của những người dân làng Kết bàiKhái quát những giá trị đặc sắc về nội dung, nghệ thuật của khổ thơ và nêu cảm nhận của bản Viết đoạn văn Phân tích khổ 2 bài Đoàn thuyền đánh cá chọn lọc hay nhất"Đoàn thuyền đánh cá" là một trong những bài thơ đặc sắc của Huy Cận được viết sau cách mạng tháng Tám. Tác phẩm đã mang đến cho người đọc những cảm nhận sâu sắc về vẻ đẹp của thiên nhiên và con người trong quá trình lao động sản xuất. Đặc biệt, ở khổ thơ thứ hai, nhà thơ đã cất vang lời hát ngợi ca sự giàu có của biển cả, đồng thời, thể hiện khí thế lao động hăng say của người ngư dân. Mở đầu khổ thơ thứ hai là âm thanh của những câu hát. Người dân chài đang ca vang lời hát ngợi ca sự giàu có của biển cả, mong chờ một mùa đánh bắt bội thu. Việc sử dụng biện pháp tu từ liệt kê "cá bạc, cá thu" kết hợp với phép so sánh "Cá thu biển Đông như đoàn thoi" đã gợi lên cho ta hình ảnh những đoàn cá nối tiếp nhau dài như bất tận. Những loài cá vẫn "đêm ngày" bơi thành từng đoàn đông đúc tạo ra thứ ánh sáng hấp dẫn như mời gọi người ngư dân. Trước sự trù phú của biển cả, người lao động cất vang lời hát gọi cá vào. Họ chỉ mong chờ chuyến ra khơi thuận buồm xuôi gió và cá xếp đầy khoang. Câu thơ "Ta hát bài ca gọi cá vào" vang lên thật thiết tha và ân tình thể hiện niềm mong mỏi chân thành của những người lao động. Họ hi vọng một mùa cá bội thu để cuộc sống được thêm ấm no, hạnh phúc. Vậy bằng việc sử dụng những biện pháp tu từ kết hợp với những hình ảnh thơ đặc sắc, Huy Cận đã mở ra trước mắt người đọc sự giàu có của biển khơi và tinh thần hăng say lao động của người ngư dân trong công cuộc lao động sản xuất. III. Bài văn mẫu Phân tích khổ 2 của bài thơ Đoàn thuyền đánh cá hay nhất 1. Bài văn Nội dung khổ 2 bài Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận ngắn hay - Mẫu 1Huy Cận là một trong số những cây bút xuất sắc của nền văn học hiện đại Việt Nam. Nếu trước cách mạng tháng Tám năm 1945, những vần thơ của ông luôn mang cảm hứng vũ trụ và nỗi sầu nhân thế thì sau cách mạng tháng Tám, ông có nhiều tìm tòi, khám phá mới với đề tài mang cảm hứng vũ trụ nhưng tràn đầy niềm vui. Và có thể nói, bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá", sáng tác năm 1958, là một trong số những sáng tác tiêu biểu của ông sau cách mạng. Mỗi khổ trong bài thơ gợi lên trong lòng người đọc những cảm nhận rất riêng và đặc biệt, khổ thơ thứ 2 trong tác phẩm đã cất lên lời ca ngợi ca sự giàu có của biển cả và hình ảnh của những người dân nơi miền câu thơ mở đầu khổ thơ thứ hai của bài thơ tác giả viếtHát rằng cá bạc biển Đông lặng,Cá thu biển đông như đoàn thoiTừ "hát rằng" mở đầu khổ thơ đã gợi lên niềm vui sướng, hạnh phúc ngập tràn của những người dân làng chài và đó còn là sự hứa hẹn một chuyến ra khơi bội thu. Và để rồi, trong lời hát ngập tràn niềm vui ấy, với việc thủ pháp liệt kê - kể ra hai loài cá có giá trị kinh tế cao - "cá bạc", "cá thu" cùng biện pháp so sánh cá thu với "đoàn thoi" dường như tác giả đã cất lên lời ca về sự giàu có của biển vào đó, trong khổ thơ, tác giả sử dụng hình ảnh nhân hóa độc đáo, từ đó gợi lên trong lòng người đọc nhiều ý ngày dệt biển muôn luồng sángTừ "đêm ngày" đặt ở đầu câu thơ như khẳng định tính liên tục, không kể ngày đêm những loài cá ấy vẫn cùng nhau "dệt" nên một tấm lưới với "muôn luồng sáng" giữa biển cả mênh mông. Đồng thời, hình ảnh này còn gợi lên những vệt nước lấp lánh được tạo nên khi đoàn cá bơi lội dưới ánh trăng. Đặc biệt, qua hình ảnh này cũng thể hiện được không khí lao động hăng say, không kể ngày đêm của người lao động. Và để rồi, từ sự cảm nhận, ngợi ca sự giàu có, trù phú của biển cả, câu thơ khép lại khổ thơ như một ca, một lời mời gọi thiết tha và trìu mến đối với những đàn cá "Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi". Nhưng có lẽ, ẩn sau lời mời gọi thiết tha ấy chính là ước mơ, là mong muốn đánh bắt được nhiều hải sản của những người dân làng chài và những điều đó xét đến cùng là ước mơ, là khao khát muốn chinh phục thiên nhiên, chinh phục biển cả của lại, khổ thơ thứ hai của bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" với việc sử dụng nhiều hình ảnh độc đáo cũng các biện pháp tu từ hấp dẫn đã cất lên lời ca, tiếng hát ngợi ca sự giàu có của biển cả. Đồng thời, khổ thơ cũng thể hiện không khí lao động hăng say và niềm mong ước của những người lao động làng Bài văn Phân tích khổ 2 của bài thơ Đoàn thuyền đánh cá ngắn hay - Mẫu Dàn ý cảm nhận khổ 2 bài Đoàn thuyền đánh Mở bài- Giới thiệu khái quát tác giả, tác Khái quát nội dung khổ hai. Thân bài - "Hát rằng" Câu hát thể hiện niềm vui, niềm hân hoan của những người ngư dân khi chuẩn bị ra khơi mong một mùa cá bội Biện pháp tu từ liệt kê "Cá bạc, cá thu" kết hợp với biện pháp tu từ so sánh "Cá thu biển đông như đoàn thoi".=> Nhấn mạnh sự trù phú, giàu có của biển cả mang lại. - "Đêm ngày" Gợi thời gian làm việc liên tục, không ngừng "Dệt biển muôn luồng sáng" Hình ảnh những đoàn cá giữa biển khơi bao la đang dệt nên một tấm lưới giữa biển => Khiến cho người ngư dân cảm thấy hào hứng, phấn khởi hơn trong công cuộc đánh bắt sự giàu có của biển "Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi" Lời mời gọi chân thành của người ngư dân với hi vọng một đợt ra khơi thu được nhiều thành quả. Kết bài- Khẳng định lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của khổ Bài văn phân tích khổ 2 Đoàn thuyền đánh cá siêu hay của học sinh giỏiHuy Cận là tác giả có nhiều bài thơ đặc sắc. Thơ ông trước cách mạng tháng Tám thường mang giọng điệu u buồn. Nhưng sau cách mạng hồn thơ của ông đã đổi khác, mang màu sắc tươi sáng hơn. Tiêu biểu cho giọng thơ trong sáng, vui tươi phải kể đến bài "Đoàn thuyền đánh cá". Ở khổ thứ hai của bài, tác giả đã làm nổi bật sự giàu có của biển cả và tinh thần lao động hăng say của người lao người đi rừng có bài ca đi rừng thì người đi biển lại có bài ca về biển "Hát rằng cá bạc biển Đông lặngCá thu biển Đông như đoàn thoi"Nhịp thơ 2/2/3 kết hợp với dấu "" đã tạo cho lời thơ âm điệu nhẹ nhàng, du dương như lời hát của người ngư dân. Đó là câu hát thể hiện niềm vui, niềm hi vọng vào một chuyến ra khơi thuận buồm xuôi gió, cá chất đầy khoang. Tác giả sử dụng phép so sánh "Cá thu biển Đông như đoàn thoi" đã gợi lên hình ảnh cá thu ở biển thường đi theo hàng như đoàn thoi. Điều đó còn thể hiện kinh nghiệm phong phú của người dân trong công việc của câu cuối của khổ thơ thứ hai thể hiện mong ước của người đánh bắt về một mùa cá bội thu"Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng, Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!""Đêm ngày" là khoảng thời gian tuần hoàn, khép kín, diễn ra liên tục, không ngừng nghỉ. Những đoàn cá nối tiếp nhau như đoàn thoi giờ đây biến thành tấm thảm lớn, dệt lên "muôn luồng sáng". Đây là một liên tưởng, so sánh thú vị của nhà thơ Huy Cận. Từ đó, gợi lên trước mắt người đọc vẻ đẹp lung linh, huyền ảo của biển khơi bao la. Câu thơ cuối "Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi" thể hiện mong ước chân thành của người đi biển. Họ mong ước một chuyến ra khơi mưa lặng, gió hòa và thu hoạch được nhiều cá tôm. Ở hai khổ thơ cuối, tác giả sử dụng các biện pháp tu từ đặc sắc, kết hợp với những hình ảnh thơ giàu sức gợi tác giả đã làm nổi bật bức tranh biển khơi giàu có và tinh thần lao động hăng say của người ngư dân. Từ đó, nhà thơ muốn ngợi ca vẻ đẹp của con người trong công cuộc chinh phục thiên nhiên để xây dựng cuộc sống thêm ấm no, hạnh phúc. - - - - - - - - - - - - - - - - - - - HẾT - - - - - - - - - - - - - - - - - - - Đoàn thuyền đánh cá là bài thơ mang cảm quan vũ trụ kết hợp với cảm hứng lãng mạn của nhà thơ Huy Cận. Khi phân tích khổ hai bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá", em cần chú ý phân tích các biện pháp tu từ và những hình ảnh thơ đặc sắc. Để tìm hiểu chi tiết hơn về bài thơ, các em có thể tham khảo thêm các nội dung khác như Hình ảnh những con người lao động mới trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá, Phân tích khổ thơ đầu bài thơ Đoàn thuyền đánh cá, Phân tích đoạn thơ trong Đoàn thuyền đánh cá "Mặt trời xuống biển như... trận lưới vây giăng", Suy nghĩ của em về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận.
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là một trong số những tác phẩm quan trọng mà các bạn học sinh cần lưu ý khi ôn tập các tác phẩn văn học thi vào 10. Trong bài viết sau, hãy cùng HOCMAI phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá để cảm nhận rõ hơn không khí lao động hân hoan, hứng khởi và niềm tự hào của nhà thơ Huy Cận khi đứng trước khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ của đất nước. I. Thông tin về tác giả – tác phẩm 1. Tác giả Huy Cận – Tên thật Cù Huy Cận – Quê quán huyện Vụ Quang, tỉnh Hà Tĩnh – Sinh năm 1919 mất năm 2005 – Huy Cận từng giữ nhiều chức vụ lãnh đạo cấp cao trong chính phủ Việt Nam – Ông còn là một nhà lãnh đạo chủ chốt của Đảng Dân chủ Việt Nam, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam – Huy Cận là một trong những gương nhà thơ xuất sắc của nền văn học hiện đại Việt Nam Tiểu sử nhà thơ Huy Cận Huy Cận sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho nghèo tại Hà Tĩnh. Thuở nhỏ, Huy Cận theo học ở quê, sau tiếp tục học trung học ở Huế rồi đậu tú tài Pháp. Tốt nghiệp trung học, ông ra Hà Nội theo học tại Cao đẳng Canh nông. Trong thời sinh viên, ông đã quen thân với nhà thơ Xuân Diệu, hai người ở chung trong ngôi nhà nhỏ tại phố Hàng Than. Từ năm 1942, Huy Cận tham gia phong trào sinh viên yêu nước và Mặt trận Việt Minh, cộng tác với nhóm Tự Lực Văn Đoàn tổ chức văn học đầu tiên của nước ta Sự nghiệp sáng tác của Huy Cận – Giai đoạn trước cách mạng tháng Tám năm 1945 Huy Cận ghi dấu là một trong những tên tuổi nổi bật của phong trào thơ Mới, với những tác phẩm thơ được lấy cảm hứng vũ trụ và nỗi sầu nhân thế như Tập thơ “Lửa thiêng” 1936 – 1940, Kinh cầu tự 1942, Vũ trụ ca 1940 – 1942 – Giai đoạn sau cách mạng tháng Tám năm 1945 thời gian này, thơ Huy Cận không còn mang nặng nỗi sầu nhân thế như trước, thơ ông chủ yếu là hồ hào, tràn ngập niềm vui cuộc sống mới và con người mới. Các tập thơ tiêu biểu có thể kể đến như Trời mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa, Hai bàn tay em, Hạt lại gieo, Những năm sáu mươi,… Phong cách nghệ thuật trong thơ Huy Cận – Thơ được lấy cảm hứng ở nhiều khía cạnh đối cực như vũ trụ – cuộc đời, sự sống – cái chết, niềm vui – nỗi buồn, hiện thực – lãng mạn, … – Thơ Huy Cận mang giọng điệu chân tình, mộc mạc và đậm tư tưởng triết lý; hình ảnh thơ sinh động, gần gũi mà giàu sức gợi 2. Tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá a. Hoàn cảnh ra đời tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá – Bài thơ được in trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng” xuất bản năm 1986, là một trong số những tập thơ nổi tiếng của Huy Cận trong giai đoạn sau cách mạng tháng Tám năm 1945 – Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được viết vào tháng 10 năm 1958. Đây là giai đoạn miền Bắc được giải phóng, nhân dân bắt đầu cuộc sống mới, đồng thời bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm hậu phương vững chắc cho chiến trường miền Nam – Bài thơ là kết tinh những cảm nghĩ và suy tư sâu sắc của Huy Cận sau chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ ông mới thực sự trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên, tự hào về đất nước, về con người lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. b. Ý nghĩa nhan đề “Đoàn thuyền đánh cá” – Sử dụng hình ảnh “đoàn thuyền”, Huy Cận muốn đề cao tinh thần đoàn kết, sự đồng lòng, chung sức cần phải có của các thành viên trên tàu. Trong Cách mạng, đoàn kết là sức mạnh giúp dân tộc đi đến thắng lợi. Sau Cách mạng, tinh thần đại đoàn kết, cần cù, chịu khó trong lao động cũng chính là nhân tố cốt lõi, góp phần xây dựng giá trị con người Việt Nam. – “Đoàn thuyền đánh cá” là hình ảnh sinh động, trong đó có con thuyền gắn liền với hoạt động “đánh cá” của người dân miền biển. Từ đó, gợi ra không khí lao động sôi nổi, hăng say của những người dân làng chài, những thành quả lao động giúp xây dựng đất nước theo nhịp sống mới sau chiến tranh. – Chỉ một nhan đề thơ vẻn vẹn bốn chữ nhưng Huy Cận đã vẽ ra một bức tranh sinh động về cảnh sinh hoạt làng chài với chất liệu chính là thiên nhiên, cảnh vật và con người lao động nơi đây c. Bố cục nội dung Theo hành trình một chuyến ra khơi, nội dung “Đoàn thuyền đánh cá” được phân chia như sau – Phần một khổ 1,2 Cảnh đoàn thuyền ra khơi, bắt đầu hành trình đánh bắt cá xa bờ – Phần hai khổ 3,4,5,6 Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển, mang khí thế lao động hào hùng – Phần ba khổ thơ cuối Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trong khung cảnh thiên nhiên tráng lệ. Tham khảo thêm Soạn văn 9 Nắm trọn kiến thức Ngữ Văn ôn thi vào 10 đạt 9+ với bộ sách 1. Phân tích khổ 1 và 2 bài thơ Đoàn thuyền đánh cá Cảnh đoàn thuyền ra khơi, bắt đầu hành trình đánh bắt cá xa bờ a. Khung cảnh hoàng hôn trên biển Mở đầu bài thơ là cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong một buổi hoàng hôn tuyệt đẹp “Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then, đêm sập cửa” – Điểm nhìn nghệ thuật đặc biệt của nhân vật trữ tình một điểm nhìn di động khi nhân vật đang trên con thuyền, cùng người dân làng chài tiến ra khơi Hình ảnh so sánh độc đáo “Mặt trời xuống biển như hòn lửa” – Miêu tả chân thực vầng mặt trời đỏ rực đang từ từ chìm xuống dưới mặt biển, báo hiệu sự kết thúc của một ngày trong vòng tuần hoàn giữa ngày và đêm – Thể hiện quang cảnh kỳ vĩ, tráng lệ giữa bầu trời và mặt biển lúc hoàng hôn. Đoàn thuyền lúc này hiện lên thật nhỏ bé trong ánh sáng của “hòn lửa” và sự mênh mông của “biển” – Phép so sánh gợi liên tưởng đến bước chuyển mình của thời gian, đó là giai đoạn giao thoa giữa hai trạng thái ngày và đêm, là sự vận động của thời gian song song với hành trình ra khơi của đoàn thuyền đánh cá Hình ảnh nhân hóa “Sóng đã cài then, đêm sập cửa” – Sóng gắn liền với biển, khi hoàng hôn đến, thủy triều lên cũng là lúc những con sóng xô bờ ngày một mạnh hơn. Những con sóng tại điểm nhìn của nhân vật trữ tình tựa như những chiếc then cửa của vũ trụ đang kéo lại gần bờ để chìm vào trạng thái nghỉ ngơi – Sử dụng các từ gắn liền với đời thường như “cài then”, “sập cửa” giúp gợi cảm giác gần gũi, thân thương. Con người tuy nhỏ bé nhưng không hề lạc lõng trong sự rộng lớn của vũ trụ, thay vào đó, thiên nhiên được hình dung như một ngôi nhà lớn của con người, nơi con người tìm thấy sự bình yên và hạnh phúc => Hai câu thơ đầu cho thấy tình yêu mà Huy Cận dành cho thiên nhiên và cho cuộc đời. Một tình yêu rực cháy như “mặt trời” và dào dạt như sóng biển. b. Cảnh đoàn thuyền ra khơi Trên chất liệu thiên nhiên tráng lệ, hùng vĩ ấy, hình ảnh con người lao động dần xuất hiện “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồm cùng gió khơi.” – Sử dụng từ “Đoàn thuyền” thay vì “con thuyền” ra khơi, Huy Cận đã tạo ra sự qua lại tấp nập trên biển. Sử dụng phụ từ “lại” giúp tạo điểm nhấn ngữ điệu và điểm nhấn cho câu thơ – Tạo hình tượng chủ động của con người trong sự vận động của thời gian – Nhắc về tính lặp lại của công việc ra khơi diễn ra hàng ngày, trở thành một hành động quen thuộc, một nhịp điệu lao động đã đi vào ổn định của người dân chài – Có tác dụng miêu tả một hành động đối lập giữa hoạt động của vũ trụ với hoạt động của con người khi thiên nhiên dần bước vào trạng thái nghỉ ngơi thì con người bắt đầu làm việc Hình ảnh “câu hát căng buồm cùng gió khơi” có tác dụng – Cụ thể hóa niềm vui, phấn khởi, sự hào hứng, hăm hở của người lao động trên hành trình đánh bắt xa bờ trước mắt – Gợi cho ta liên tưởng tới nguồn sức mạnh đẩy con thuyền vượt trùng ra khơi. Luồng sức mạnh ấy không chỉ đến từ những con sóng, ngọn gió mà còn đến từ lời ca tiếng hát, năng lượng dồi dào của những thành viên trên thuyền. “Đoàn thuyền” trong mắt tác giả không di chuyển phụ thuộc vào thiên nhiên mà hoàn toàn chủ động, hòa mình vào sự vận động của vũ trụ. – Bằng nghệ thuật chuyển đổi cảm giác “câu hát căng buồm”, tác giả đã tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn của người lao động, qua những câu hát tràn đầy năng lượng, nhiệt huyết, hòa cùng gió biển để đẩy thuyền ra khơi => Huy Cận đã tạo ra một khung cảnh khỏe khoắn bằng việc kết hợp 3 sự vật và hiện tượng Câu hát, cánh buồm và gió khơi, 3 sự vật biểu trưng cho 3 đối tượng là con người, công cụ lao động và thiên nhiên => Đoàn thuyền trong mắt nhìn của Huy Cận ra khơi trong trạng thái phấn chấn và náo nức đến kỳ lạ. Dường như có một sức mạnh vật chất từ con người đã hòa cùng với gió biển, góp phần làm căng cánh buồm, đẩy con thuyền nhẹ nhàng lướt sóng ra khơi Trong tâm trạng phấn chấn, rộn ràng khi ra khơi, những người dân chài đã cất cao tiếng hát mang theo niềm mong mỏi tha thiết “Hát rằng cá bạc biển Đông lặng Cá thu biển Đông như đoàn thoi Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng Đến dệt lưới ra, đoàn cá ơi!” – Từ “hát rằng” nói lên niềm vui của người dân chài khi bắt đầu một chuyến ra khơi – Sử dụng thủ pháp liệt kê “cá bạc”, “cá thu” và phép so sánh “như thoi đưa” đã thể hiện rõ sự giàu có phong phú của biển Đông, đồng thời là giai điệu ngợi ca, biết ơn về “rừng vàng biển bạc” mà thiên nhiên đã ưu ái ban tặng cho quê hương Hình ảnh ẩn dụ, nhân hóa “đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng” của những loài cá biển có tác dụng – Tạo ra không khí lao động hăng say không kể ngày đêm của người lao động – Cùng với hoạt động náo nhiệt diễn ra nơi những con thuyền, những đàn cá cũng thi nhau bơi trong biển đêm, tạo ra nhiều sắc màu chuyển động nhộn nhịp hai bên mạn thuyền – Từ “dệt biển” ở đây miêu tả những vệt nước lấp lánh được tạo ra khi đoàn cá bơi lội dưới ánh trăng. Muôn ngàn đoàn cá bơi qua lại tạo thành thảm biển đêm lấp lánh đầy sinh động qua con mắt của nhà thơ => Qua 4 câu thơ, tác giả đã phác họa thành công một bức tranh thiên nhiên kỳ vĩ, thơ mộng từ hoàng hôn đến cảnh biển về đêm, cùng với đó là tâm hồn phóng khoáng, nhiệt huyết dành cho lao động và niềm hy vọng của người dân chài mỗi lần ra khơi. 2. Phân tích khổ 3, 4, 5 và 6 Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển, mang khí thế lao động hào hùng a. Đoàn thuyền ra khơi với tư thế tầm vóc lớn lao, được miêu tả cụ thể và rất sinh động “Thuyền ta lái gió với buồm trăng Lướt giữa mây cao với biển bằng Ra đậu dặm xa dò bụng biển Dàn đan thế trận lưới vây giăng” – Đoàn thuyền đánh cá trong mắt tác giả hiện lên với sức mạnh lớn lao, có thể so sánh với thiên nhiên bao la, rộng mở như chiều cao của trăng và mây; chiều rộng của mặt biển; độ sâu của biển Lấy cảm hứng nhân sinh vũ trụ, tác giả đã dựng lên hình ảnh đoàn thuyền đánh cá tương xứng với không gian – Nghệ thuật phóng đại qua 2 câu thơ “lái gió với buồm trăng”, “lướt giữa mây cao với biển bằng” cho thấy con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước khung cảnh hoàng hôn trên biển, nay đã trở thành con thuyền khổng lồ, kỳ vĩ, làm chủ hoàn toàn không gian bao la, rộng lớn của thiên nhiên, sánh ngang tầm vũ trụ – Khác với thời điểm bắt đầu, đoàn thuyền ngoài khơi thể hiện khí phách mạnh kẽ khác thường, hòa nhập vào thiên nhiên và sẵn sàng mang về mẻ cá đầy – Khi con thuyền buông lưới, mặt lưới rộng như dò thấu đáy đại dương, toàn bộ biển nước mênh mông giờ đây đều được con thuyền đánh cá kiểm soát => Sự kết hợp giữa hiện thực với chất lãng mạn được thể hiện qua cách nói phóng đại đã giúp Huy Cận tạo nên những vần thơ đẹp và sâu sắc – Sử dụng các động từ “lái”, “lướt”, “dò”, “dàn”, rải đều trong mỗi câu thơ, cho thấy sự linh hoạt của đoàn thuyền, các hoạt động diễn ra liên tục khiến con thuyền như đang thực sự làm chủ biển trời. – Câu thơ “Ra đậu dặm xa dò bụng biển” gợi cho ta thấy không khi lao động hứng khởi của người dân trên thuyền. Mặc cho đêm tối, biển đen họ vẫn quyết tâm tìm cá trong “lòng biển” – Sử dụng phép ẩn dụ trong câu thơ “Dàn đan thế trận” phản chiếu cuộc sống của người dân chài với mỗi lần ra khơi như tham gia vào một trận chiến đấu ác liệt => Khổ thơ vẽ lên một bức tranh con người và sự vật trong lao động thật đặc sắc và tráng lệ. Trong bức tranh ấy, thiên nhiên và con thuyền dường như không có sự tách biệt. Con người bây giờ không những điều khiển cả con thuyền mà còn thâu tóm được cả không gian vũ trụ. b. Cảnh biển đẹp trong đêm với sự giàu có, phong phú và tấm lòng hào phóng “Cá nhụ cá chim cùng cá đé Cá song lấp lánh đuốc đen hồng Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe Đêm thở sao lùa nước Hạ Long” – Qua thủ pháp liệt kê, tác giả đã diễn tả sự phong phú và giàu có của biển cả quê hương qua những loài cá quý hiếm của biển như cá chim, cá nhụ, cá đé Hình ảnh ẩn dụ “cá song lấp lánh đuốc đen hồng” mang nhiều ý nghĩa – Nghĩa tả thực miêu tả chân thực loài cá song với chiếc thân dài, trên vảy có những chấm nhỏ màu đen hồng, lấp lánh như màu những ngọn đuốc – Nghĩa ẩn dụ gợi liên tưởng đến đoàn cá song bơi nối đuôi nhau, từ xa, tựa như một ngọn đuốc lấp lánh dưới ánh trăng đêm, soi sáng biển đêm đen, tạo nên một cảnh tượng thật lộng lẫy và kỳ vĩ Biện pháp nghệ thuật nhân hóa trong câu thơ “Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe” mang nhiều lớp nghĩa – Nghĩa tả thực miêu tả động tác quẫy đuôi của một chú cá dưới mặt biển, trong ánh trăng vàng chiếu rọi – Nghĩa ẩn dụ tác giả muốn khắc họa khung cảnh của một đêm trăng tuyệt đẹp, huyền ảo mà ánh trăng như dát đầy mặt biến khiến cho đàn cá quẫy nước mà như quẫy trăng Hình ảnh nhân hóa trong câu thơ “Đêm thở sao lùa nước Hạ Long” – Miêu tả sinh động nhịp điệu của những cánh sóng trên biển Hạ Long – Giúp người đọc liên tưởng đến nhịp thở của biển về đêm. Biển lúc này như một thực thể sống, mang linh hồn của một con người, rực rỡ sắc màu như một bức tranh sơn mài được tô điểm bởi những vì sao Biển cả phong phú tài nguyên cùng tấm lòng bao dung đã mở ra tâm trạng háo hức, tinh thần lao động hăng say và lòng biết ơn biển qua câu hát “Ta hát bài ca gọi cá vào Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao Biển nuôi ta lớn như lòng mẹ Nuôi lớn đời ta tự buổi nào” – Qua câu thơ “Ta hát bài ca gọi cá vào” cùng bút pháp lãng mạn, tác giả đã thể hiện sự vui tươi của người dân chài trong lao động. Họ đã biến khó khăn thành bài ca nhiệt huyết, thúc đẩy tinh thần lao động giữa biển đêm đầy sóng gió. – Điều kỳ diệu trong tiếng hát của người dân chài là không chỉ tăng thêm tinh thần lao động mà còn có khả năng gọi cá vào lưới, đem đến cho đoàn thuyền những mẻ cá tươi ngon – Sử dụng phép so sánh “biển” với “lòng mẹ” cho thấy sự bao dung, hào phóng mà mẹ thiên nhiên ban tặng cho con người. Đồng thời, thể hiện sự biết ơn của những người dân chài tới biến, tựa như nguồn sữa khổng lồ, nuôi nấng người dân từ bao đời nay => Khổ thơ ngoài thể hiện sâu sắc niềm tự hào và lòng biết ơn của người dân chài trước ân tình của quê hương đất nước c. Khung cảnh thu hoạch cá hăng say trên biển trong nhịp điệu lao động khẩn trương, hào hứng và hăng say “Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.” – “Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng” diễn tả khung cảnh người dân vội vàng, nhộn nhịp thu hoạch cá cho kịp trời sáng Ẩn dụ “Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng” thể hiện nhịp độ công việc của người trên thuyền đang trở nên khẩn trương với hi vọng đón chờ mẻ cá nặng – Có thể hình dung thấy những cánh tay săn chắc, cuồn cuộn, làn da khỏe khoắn trong tư thế hiên ngang, đang gồng lên kéo lấy chùm cá từ lòng biển. – Những nét tạo hình gân guốc, chắc khỏe, cơ bắp cuồn cuộn tôn lên vẻ đẹp khỏe khoắn của người dân chài lưới trong lao động. – Dấu hiệu cho một mẻ lưới bội thu Bút pháp sử dụng màu sắc hình ảnh “vẩy bạc”, “đuôi vàng” đầy ắp khoang thuyền – Gợi ra niềm vui phơi phới của người lao động khi đón nhận món quà từ biển cả – Vảy cá tựa như màu bạc, đuôi cá óng ánh như dát vàng, mẻ cá chất đầy thuyền lấp lánh dưới ánh mặt trời, rực sáng cả rạng đông, mọi vật đều tràn ngập sức sống => Tác giả đã khắc họa được một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ với sự giàu có hào phóng của biển cả. Đồng thời khắc họa thành công hình tượng người lao động làng chài với tầm vóc lớn lao, phi thường. 3. Phân tích khổ thơ cuối Đoàn thuyền đánh cá Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trong khung cảnh thiên nhiên tráng lệ “Câu hát căng buồm với gió khơi Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời Mặt trời đội biển nhô màu mới Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.” – Câu hát ra khơi và câu hát trở về được miêu tả với cùng một cấu trúc nhưng lại mang âm hưởng hoàn toàn khác nhau. Nghệ thuật đầu cuối trong câu hát ra khơi “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”, và câu hát trở về “Câu hát căng buồm với gió khơi” – Trong câu hát ra khơi, tác giả sử dụng từ “cùng” để thể hiện sự hài hòa giữa ngọn gió từ thiên nhiên và câu hát từ con người. Từ đó, kỳ vọng vào một chuyến đi biển thuận lợi và bình yên. – Trong câu hát trở về, tác giả sử dụng từ “với” để bộc lộ niềm vui phơi phới khi trở về trên những con thuyền đầy ắp cá Sử dụng phép nghệ thuật nhân hóa “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” – Đoàn thuyền như trở thành một thực thể sống, vượt qua giới hạn sức mạnh để chạy đua với thiên nhiên – Tầm vóc của đoàn thuyền hay con người nay đã có thể sánh ngang với tầm vóc của vũ trụ – Trong tư thế hào hùng, khẩn trương con người đã hoàn thành nhiệm vụ và chiến thắng về đích trước khi biển đón bình minh – Khi “Mặt trời đội biển nhô màu mới” thì đoàn thuyền đã cập bến, ánh mặt trời chiếu sáng long lanh trong những tàu cá, tạo nên hình ảnh thơ “Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi”. Phép hoán dụ được sử dụng trong hình ảnh “mắt cá huy hoàng” – Tác giả dùng để tả thực muôn triệu mắt cá li ti được phản chiếu bởi ánh rạng đông và trở nên rực rỡ, huy hoàng. – Nghĩa ẩn dụ muôn vàn mắt cá lấp lánh này không còn là ánh sáng của tự nhiên nữa, mà là ánh sáng của chiến thắng, của thành quả lao động. Ánh sáng mở ra chân trời niềm vui mới đối với những người con miền biển. => Khổ thơ cuối được xem như khúc ca khải hoàn của bản anh hùng ca lao động, thể hiện niềm vui phơi phới của con người khi hòa hợp nhuần nhuyễn với thiên nhiên thành, tạo nên vẻ đẹp thực sự tráng lệ III. Tổng kết chung tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá 1. Về nội dung tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là khúc tráng ca nhằm ca ngợi cuộc sống lao động tập thể của người dân chài trong công cuộc xây dựng đất nước trong thời đại mới. Bài thơ đồng thời thể hiện niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ của thiên nhiên, là lòng biết ơn tới sự hào phóng của thiên nhiên và tầm vóc lớn lao của người lao động. 2. Về nghệ thuật trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá Bằng một ngòi bút tràn đầy cảm hứng thiên nhiên, hình ảnh sinh động, giàu sức gợi, kết cấu tương ứng đầu cuối đặc sắc. Bài thơ đã thành công trong việc xây dựng hình ảnh đoàn thuyền đánh cá với sức mạnh khỏe khoắn, hào hùng và trần đầy nhiệt huyết. Trên đây là toàn bộ nội dung Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của tác giả Huy Cận. Hy vọng với nội dung trên, HOCMAI đã giúp các bạn thêm phần tự hào về thiên nhiên cũng như con người lao động Việt Nam, đặc biệt là những người dân làng chài. Ngoài bài thơ trên, các bạn có thể tham khảo bài phân tích của các tác phẩm văn học ôn thi vào 10. Chúc các bạn ôn tập hiệu quả! Tham khảo thêm Phân tích Hoàng Lê Nhất Thống Chí
Phân tích 2 khổ đầu bài Đoàn thuyền đánh cáPhân tích khổ 2 bài Đoàn thuyền đánh cá - Khổ 2 bài Đoàn thuyền đánh cá chính là sự ca ngợi về sự giàu có của biển cả và tinh thần lao động hăng say của người dân. Sau đây là tổng hợp các bài văn mẫu phân tích 2 khổ đầu bài Đoàn thuyền đánh cá, phân tích Đoàn thuyền đánh cá khổ 2 hay và chi tiết sẽ là tài liệu tham khảo Ngữ văn 9 cho các bạn học thơ Đoàn thuyền đánh cá là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Huy Cận được đưa vào chương trình Ngữ văn lớp 9. Bài thơ là một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ về biển cả cũng như ca ngợi tinh thần lao động hăng say của nhân dân trong thời kỳ đổi Dàn ý phân tích khổ 2 bài Đoàn thuyền đánh cá1. Mở bài- Giới thiệu khái quát về tác giả Huy Cận những nét khái quát về cuộc đời, con người, các sáng tác tiêu biểu, đặc điểm sáng tác,...- Giới thiệu khái quát về bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" hoàn cảnh ra đời, xuất xứ, khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật,...- Giới thiệu vấn đề phân tích khổ 2 bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá".2. Thân bài- Hai câu thơ đầu+ "Hát rằng" gợi lên niềm vui sướng, hạnh phúc ngập tràn của những người dân làng chài và là sự hứa hẹn một chuyến ra khơi bội thu.+ Thủ pháp liệt kê "cá bạc", "cá thu" cùng biện pháp so sánh cá thu với "đoàn thoi" dường như tác giả đã cất lên lời ca về sự giàu có của biển Câu thơ "Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng"+ "Đêm ngày" đặt ở đầu câu thơ như khẳng định tính liên tục.+ Không kể ngày đêm những loài cá ấy vẫn cùng nhau "dệt" nên một tấm lưới với "muôn luồng sáng" giữa biển cả mênh mông.+ Gợi lên những vệt nước lấp lánh được tạo nên khi đoàn cá bơi lội dưới ánh trăng.+ Thể hiện được không khí lao động hăng say của người lao động- Câu thơ kết thúc khổ thơ+ Câu thơ như một ca, một lời mời gọi thiết tha và trìu mến đối với những đàn cá+ Ẩn sau lời mời gọi thiết tha ấy chính là ước mơ, là mong muốn đánh bắt được nhiều hải sản của những người dân làng Kết bàiKhái quát những giá trị đặc sắc về nội dung, nghệ thuật của khổ thơ và nêu cảm nhận của bản Phân tích khổ 2 bài Đoàn thuyền đánh cáHuy Cận là một trong số những cây bút xuất sắc của nền văn học hiện đại Việt Nam. Nếu trước cách mạng tháng Tám năm 1945, những vần thơ của ông luôn mang cảm hứng vũ trụ và nỗi sầu nhân thế thì sau cách mạng tháng Tám, ông có nhiều tìm tòi, khám phá mới với đề tài mang cảm hứng vũ trụ nhưng tràn đầy niềm vui. Và có thể nói, bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá", sáng tác năm 1958, là một trong số những sáng tác tiêu biểu của ông sau cách mạng. Mỗi khổ trong bài thơ gợi lên trong lòng người đọc những cảm nhận rất riêng và đặc biệt, khổ thơ thứ 2 trong tác phẩm đã cất lên lời ca ngợi ca sự giàu có của biển cả và hình ảnh của những người dân nơi miền câu thơ mở đầu khổ thơ thứ hai của bài thơ tác giả viếtHát rằng cá bạc biển Đông lặng,Cá thu biển đông như đoàn thoiTừ "hát rằng" mở đầu khổ thơ đã gợi lên niềm vui sướng, hạnh phúc ngập tràn của những người dân làng chài và đó còn là sự hứa hẹn một chuyến ra khơi bội thu. Và để rồi, trong lời hát ngập tràn niềm vui ấy, với việc thủ pháp liệt kê - kể ra hai loài cá có giá trị kinh tế cao - "cá bạc", "cá thu" cùng biện pháp so sánh cá thu với "đoàn thoi" dường như tác giả đã cất lên lời ca về sự giàu có của biển vào đó, trong khổ thơ, tác giả sử dụng hình ảnh nhân hóa độc đáo, từ đó gợi lên trong lòng người đọc nhiều ý ngày dệt biển muôn luồng sángTừ "đêm ngày" đặt ở đầu câu thơ như khẳng định tính liên tục, không kể ngày đêm những loài cá ấy vẫn cùng nhau "dệt" nên một tấm lưới với "muôn luồng sáng" giữa biển cả mênh mông. Đồng thời, hình ảnh này còn gợi lên những vệt nước lấp lánh được tạo nên khi đoàn cá bơi lội dưới ánh trăng. Đặc biệt, qua hình ảnh này cũng thể hiện được không khí lao động hăng say, không kể ngày đêm của người lao động. Và để rồi, từ sự cảm nhận, ngợi ca sự giàu có, trù phú của biển cả, câu thơ khép lại khổ thơ như một ca, một lời mời gọi thiết tha và trìu mến đối với những đàn cá "Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi". Nhưng có lẽ, ẩn sau lời mời gọi thiết tha ấy chính là ước mơ, là mong muốn đánh bắt được nhiều hải sản của những người dân làng chài và những điều đó xét đến cùng là ước mơ, là khao khát muốn chinh phục thiên nhiên, chinh phục biển cả của lại, khổ thơ thứ hai của bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" với việc sử dụng nhiều hình ảnh độc đáo cũng các biện pháp tu từ hấp dẫn đã cất lên lời ca, tiếng hát ngợi ca sự giàu có của biển cả. Đồng thời, khổ thơ cũng thể hiện không khí lao động hăng say và niềm mong ước của những người lao động làng Phân tích Đoàn thuyền đánh cá khổ 2Huy Cận là một trong số những cây bút xuất sắc của nền văn học hiện đại Việt Nam. Nếu trước cách mạng tháng Tám năm 1945, những vần thơ của ông luôn mang cảm hứng vũ trụ và nỗi sầu nhân thế thì sau cách mạng tháng Tám, ông có nhiều tìm tòi, khám phá mới với đề tài mang cảm hứng vũ trụ nhưng tràn đầy niềm vui. Và có thể nói, bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá", sáng tác năm 1958, là một trong số những sáng tác tiêu biểu của ông sau cách mạng. Mỗi khổ trong bài thơ gợi lên trong lòng người đọc những cảm nhận rất riêng và đặc biệt, khổ thơ thứ 2 trong tác phẩm đã cất lên lời ca ngợi ca sự giàu có của biển cả và hình ảnh của những người dân nơi miền câu thơ mở đầu khổ thơ thứ hai của bài thơ tác giả viếtHát rằng cá bạc biển Đông lặng,Cá thu biển đông như đoàn thoiTừ "hát rằng" mở đầu khổ thơ đã gợi lên niềm vui sướng, hạnh phúc ngập tràn của những người dân làng chài và đó còn là sự hứa hẹn một chuyến ra khơi bội thu. Và để rồi, trong lời hát ngập tràn niềm vui ấy, với việc thủ pháp liệt kê - kể ra hai loài cá có giá trị kinh tế cao - "cá bạc", "cá thu" cùng biện pháp so sánh cá thu với "đoàn thoi" dường như tác giả đã cất lên lời ca về sự giàu có của biển vào đó, trong khổ thơ, tác giả sử dụng hình ảnh nhân hóa độc đáo, từ đó gợi lên trong lòng người đọc nhiều ý ngày dệt biển muôn luồng sángTừ "đêm ngày" đặt ở đầu câu thơ như khẳng định tính liên tục, không kể ngày đêm những loài cá ấy vẫn cùng nhau "dệt" nên một tấm lưới với "muôn luồng sáng" giữa biển cả mênh mông. Đồng thời, hình ảnh này còn gợi lên những vệt nước lấp lánh được tạo nên khi đoàn cá bơi lội dưới ánh trăng. Đặc biệt, qua hình ảnh này cũng thể hiện được không khí lao động hăng say, không kể ngày đêm của người lao động. Và để rồi, từ sự cảm nhận, ngợi ca sự giàu có, trù phú của biển cả, câu thơ khép lại khổ thơ như một ca, một lời mời gọi thiết tha và trìu mến đối với những đàn cá "Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi". Nhưng có lẽ, ẩn sau lời mời gọi thiết tha ấy chính là ước mơ, là mong muốn đánh bắt được nhiều hải sản của những người dân làng chài và những điều đó xét đến cùng là ước mơ, là khao khát muốn chinh phục thiên nhiên, chinh phục biển cả của lại, khổ thơ thứ hai của bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" với việc sử dụng nhiều hình ảnh độc đáo cũng các biện pháp tu từ hấp dẫn đã cất lên lời ca, tiếng hát ngợi ca sự giàu có của biển cả. Đồng thời, khổ thơ cũng thể hiện không khí lao động hăng say và niềm mong ước của những người lao động làng chài.+4. Phân tích 2 khổ đầu bài Đoàn thuyền đánh cáPhân tích cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi 2 khổ đầuMở bàiHuy Cận là nhà thơ tiêu biểu cho nền thơ hiện đại Việt Nam. Trước Cách mạng tháng Tám,thơ ông giàu chất triết lí, thấm thía bao nỗi buồn, tràn ngập cái sầu nhân thế. Sau cách mạng, thơ ông tập trung ca ngợi thiên nhiên đất nước và niềm vui của con người trong cuộc sống mới. Đoàn thuyền đánh cá là thi phẩm tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận sau cách mạng. Bài thơ là một khúc tráng ca khỏe khoắn, hào hùng về thiên nhiên và con người lao động. Điều này được thể hiện sâu sắc, tinh tế ở 2 khổ đầu bài bài1. Hoàn cảnh sáng tácGiữa năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Chuyến đi này đã khiến hồn thơ Huy Cận nảy nở trở lại và dồi dào cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. Bài “Đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác trong thời gian đó và được in trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại sáng”1958.2. Phân tíchMở đầu bài thơ là cảnh đoàn thuyền ra khơi lúc hoàng hôn“Mặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then,đêm sập cửaĐoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”Bốn câu thơ có kết cấu gọn gàng, cân đối như một bài tứ tuyệt hai câu đầu tả cảnh, hai câu sau nói về con người. Cảnh và người tưởng như đối lập song lại hòa hợp, cảnh làm nền để cho hình ảnh con người nổi bật lên như tâm điểm của một bức tranh – bức tranh lao động khỏe khoắn, vui tươi tràn ngập âm thanh và rực rỡ sắc màu. Hai câu thơ đầu tả cảnh hoàng hôn trên biển, cũng là thời điểm đoàn thuyền đánh cá ra khơi“Mặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then, đêm sập cửa”.Phép tu từ so sánh “mặt trời xuống biển – hòn lửa”, mặt trời như một quả cầu lửa– đỏ rực, khổng lồ chìm vào đáy nước đại dương. Bức tranh hoàng hôn mang một vẻ đẹp rực rỡ, tráng lệ, và ấm áp. Phép nhân hóa, ẩn dụ “Sóng đã cài then, đêm sập cửa” khiến người đọc cảm nhận thiên nhiên, vũ trụ,biển cả như đi vào trạng thái tĩnh lặng, nghỉ ngơi, thư giãn. Vũ trụ giờ đây như một ngôi nhà khổng lồ. Những lượn sóng dài như chiếc then cài, còn màn đêm đang buông xuống là cánh cửa. Hình ảnh thơ cho thấy thiên nhiên vũ trụ bao la mà gần gũi với con người – biển cả hay đó cũng chính là ngôi nhà thân thuộc của mỗi ngư nhiên vũ trụ là nền cho con người xuất hiện“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơiCâu hát căng buồm cùng gió thơ đã làm nổi bật khí thế lao động đầy hăng hái, tươi vui của những con người lao động “Tập làm chủ, tập làm người xây dựng/Dám vươn mình cai quản lại thiên nhiên!”. Hình ảnh hoán dụ “đoàn thuyền đánh cá” và phụ từ “lại” diễn tả nhịp điệu lao động quen thuộc, hàng ngày, thường xuyên, trở thành một nếp sống quen thuộc của những người ngư dân vùng biển. Đoàn thuyền lại ra khơi, tuần tự, nhịp nhàng như cái nhịp sống không bao giờ ngừng nghỉ. Hình ảnh ẩn dụ “câu hát căng buồm” diễn tả tiếng hát khỏe khoắn tiếp sức cho gió làm căng cánh buồm, đẩy con thuyền lao nhanh ra khơi xa. Tiếng hát làm nổi bật khí thế hồ hởi của người lao động trong buổi xuất quân chinh phục biển hát ấy còn thể hiện niềm mong ước của người đánh cá mong ước một chuyến ra khơi đánh bắt được thật nhiều hải sản, nhiều cá tôm giữa sự giàu đẹp của biển khơi“ Hát rằng cá bạc biển Đông lặng,Cá thu biển Đông như đoàn thoiĐêm ngày dệt biển muôn luồng sáng,Đến dệt lưới ta,đoàn cá ơi!”Bằng những liên tưởng thực tế kết hợp với phép so sánh “cá thu – đoàn thoi” khiến người đọc hình dung hình ảnh những con cá thu mình lấp lánh ánh trăng lướt rất nhanh trên biển như con thoi chạy đi chạy lại trên khung cửa dệt vải. Trong sự tưởng tượng của những người đánh cá yêu quý biển cả quê hương của mình, cá đi trên biển là cá dệt biển, cá vào lưới là cá dệt lưới, “đến dệt lưới ta”. Từ ” ta” vang lên đầy tự hào kiêu hãnh trong suốt bài thơ, không còn là cái tôi nhỏ bé, đơn côi như ngày xưa nữa mà là cái” ta” tập thể đầy sức Đánh giá, khái quátVới việc xây dựng hình ảnh thơ bằng liên tưởng, tưởng tượng, âm hưởng hào hùng, lạc quan, cùng những phép so sánh, nhân hóa, hai khổ thơ đầu đã khắc họa cảnh biển đêm vô cùng lung linh và hình ảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá với niềm say sưa lạc quan tin tưởng của người dân chài, đó là niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống bàiĐoạn thơ là một bài ca lao động hứng khởi, hào hùng. Bài ca ấy dành cho biển hào phóng, cho những con người cần cù, gan góc, đang làm giàu cho đất nước. Những người lao động đã thật sự làm chủ cuộc sống của mình, làm chủ vùng biển thân yêu của Tổ quốc. Đọc những dòng thơ, độc giả như. cùng chia sẻ niềm vui to lớn với nhà thơ, với tất cả những người lao động mới đang kiêu hãnh ngẩng cao đầu trên con đường đi đến tương lai tươi các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Văn học - Tài liệu của khảo thêmTop 10 bài phân tích Chuyện người con gái Nam Xương hay chọn lọc Phân tích Chuyện người con gái Nam Xương ngắn gọnTop 8 bài cảm nhận Đoàn thuyền đánh cá hay chọn lọc Cảm nhận bài thơ Đoàn thuyền đánh cáTop 8 bài phân tích Đoàn thuyền đánh cá hay nhất Phân tích bài Đoàn thuyền đánh cá ngắn nhấtNêu cảm nhận của em về những nét đẹp trong phong cách Hồ Chí Minh Nêu cảm nhận của em về phong cách của Bác đoạn vănTop 9 bài tóm tắt Chuyện người con gái Nam Xương ngắn gọn Tóm tắt vb Người con gái Nam XươngTop 10 mẫu đóng vai Trương Sinh kể lại Chuyện người con gái Nam Xương siêu hay Hóa thân Trương Sinh kể lại Chuyện người con gái Nam Xương
Đoàn Thuyền Đánh Cá ❤️️ Nội Dung Bài Thơ, Nghệ Thuật, Phân Tích ✅ Tổng Hợp Sơ Đồ Tư Duy, Tìm Hiểu Hoàn Cảnh Sáng Tác, Giá Trị Tác Phẩm. Nội Dung Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh CáVề Nhà Thơ Huy CậnVề Tác Phẩm Đoàn Thuyền Đánh CáHoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh CáÝ Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh CáGiá Trị Tác Phẩm Đoàn Thuyền Đánh CáGiá trị nội dungGiá trị nghệ thuậtBố Cục Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh CáDàn Ý Đoàn Thuyền Đánh CáSoạn Bài Đoàn Thuyền Đánh CáGiáo Án Đoàn Thuyền Đánh CáSơ Đồ Tư Duy Đoàn Thuyền Đánh Cá5 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá Hay NhấtPhân Tích Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá Đặc Sắc – Mẫu 1Phân Tích Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá Chọn Lọc – Mẫu 2Phân Tích Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá Nổi Bật – Mẫu 3Phân Tích Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá Tiêu Biểu – Mẫu 4Phân Tích Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá Ấn Tượng – Mẫu 5 Đến với bài thơ Đoàn thuyền đánh cá, nhà thơ Huy Cận đã khắc họa hình ảnh đẹp đẽ tráng lệ cũng như thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ về đất nước. Thưởng thức nội dung bài thơ Đoàn thuyền đánh cá bên dưới nhé. Đoàn thuyền đánh cáTác giả Huy Cận Mặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then, đêm sập thuyền đánh cá lại ra khơi,Câu hát căng buồm cùng gió khơi. Hát rằng cá bạc biển Đông lặng,Cá thu biển Đông như đoàn thoiĐêm ngày dệt biển muôn luồng dệt lưới ta, đoàn cá ơi! Thuyền ta lái gió với buồm trăngLướt giữa mây cao với biển bằng,Ra đậu dặm xa dò bụng biển,Dàn đan thế trận lưới vây giăng. Cá nhụ cá chim cùng cá đé,Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe,Đêm thở sao lùa nước Hạ Long. Ta hát bài ca gọi cá vào,Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,Biển cho ta cá như lòng mẹ,Nuôi lớn đời ta tự buổi nào. Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng,Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông,Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng. Câu hát căng buồm với gió khơi,Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời đội biển nhô màu mớiMắt cá huy hoàng muôn dặm phơi. Có thể bạn sẽ cần tác phẩm 🌻Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính🌻 Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích Về Nhà Thơ Huy Cận Ngay sau đây là những nét chính về nhà thơ Huy Cận. Huy Cận 1919 – 2005, tên đầy đủ là Cù Huy Cận. Quê hương làng Ân Phú, huyện Hương Sơn nay là xã Ân Phú, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh. Ông tham gia hoạt động cách mạng và từng giữ nhiều chức vụ cao trong Chính phủ Việt Nam như Bộ trưởng Bộ canh nông đầu tiên, Thứ trưởng sau đó là Bộ trưởng Bộ Văn hóa nghệ thuật, Bộ trưởng Bộ Văn hóa Giáo dục… Ông là một trong những nhà thơ xuất sắc thuộc phong trào Thơ mới. Một số tác phẩm Trước cách mạng tháng 8 Lửa thiêng thơ, 1940, Kinh cầu tự văn xuôi triết lý, 1942, Vũ trụ ca thơ, 1940 -1942. Sau cách mạng tháng 8 Trời mỗi ngày lại sáng thơ, 1958, Đất nở hoa thơ, 1960, Chiến trường gần đến chiến trường xa thơ, 1973, Suy nghĩ về nghệ thuật tiểu luận phê bình, 1980 – 1982… Về Tác Phẩm Đoàn Thuyền Đánh Cá Về tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá, bài thơ được sáng tác theo thể thơ bảy chữ. Bài thơ là khúc tráng ca ca ngợi con người lao động với tinh thần làm chủ và niềm vui, niềm tin trước cuộc sống mới trong những năm đầu xây dựng đất nước. Bài thơ là sự kết hợp của hai nguồn cảm hứng cảm hứng lãng mạn, tràn đầy niềm vui, sự hào hứng trong thời kỳ miền Bắc bước vào xây dựng cuộc sống mới và cảm hứng vũ trụ vốn là nét nổi bật trong hồn thơ Huy Cận. Sự gặp gỡ, giao hoà của hai nguồn cảm hứng đó đã tạo nên những hình ảnh rộng lớn, tráng lệ, lung linh như những bức tranh sơn mài của bài thơ. Nhất định đừng bỏ lỡ tác phẩm 🌸 Bàn Về Đọc Sách 🌸 Sơ Đồ Tư Duy, Phân Tích, Dàn Ý Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Đoàn thuyền đánh cá như sau Đoàn thuyền đánh cá được Huy Cận sáng tác năm 1958, trong chuyến đi thực tế tại vùng mỏ Hòn Gai. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy Cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại sáng” 1958 Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá Chia sẻ bạn đọc ý nghĩa nhan đề bài thơ Đoàn thuyền đánh cá. Nhan đề bài thơ gợi ra nhiều ý nghĩa. Trước hết, ta có thể xác định được hình ảnh trung tâm trong bài thơ là đoàn thuyền đánh cá. Đầu tiên “đoàn thuyền” – không chỉ một con thuyền mà là rất nhiều con thuyền cùng nhau ra khơi, để làm công việc lao động quen thuộc với cuộc sống của họ “đánh cá”. Qua hình ảnh này, nhà thơ muốn ca ngợi sự đoàn kết của nhân dân trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đồng thời ca ngợi vẻ đẹp trù phú của thiên nhiên Việt Nam, cũng như bộc lộ tình yêu sâu đậm với quê hương, đất nước. Đừng vội bỏ lỡ phân tích ✨ Những Đứa Trẻ [M. Go-Rơ-Ki] ✨ Nội Dung, Giá Trị, Phân Tích Giá Trị Tác Phẩm Đoàn Thuyền Đánh Cá Cùng khám phá các giá trị tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá sau đây. Giá trị nội dung Đoàn thuyền đánh cá đã tái hiện thành công vẻ đẹp trù phú của biển cả quê hương và cuộc sống lao động đầy hăng say của nhân dân trong thời kỳ mới. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá còn là khúc tráng ca ca ngợi cuộc sống lao động tập thể của người dân chài trong công cuộc xây dựng và tái thiết đất nước, đồng thời bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước khung cảnh thiên nhiên đất nước giàu đẹp. Giá trị nghệ thuật Xây dựng hình ảnh thơ bằng liên tưởng Trí tưởng tượng phong phú. Âm hưởng thơ khỏe khoắn hào hùng và sáng tạo. Bố Cục Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá Bố cục bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được chia làm 3 phần Phần 1. Từ đầu đến “Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!” Khung cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi. Phần 2. Tiếp theo đến “Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”. Khung cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển. Phần 3. Còn lại Khung cảnh đoàn thuyền đánh cá lúc trở về. Xem thêm về phân tích 🌿 Cố Hương [Lỗ Tấn] 🌿 Nội Dung, Nghệ Thuật Dàn Ý Đoàn Thuyền Đánh Cá Tiếp theo là dàn ý Đoàn thuyền đánh cá chọn lọc. 1. Mở bài Giới thiệu tác giả Huy Cận và bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” Tác giả Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu trong thời kì trước Cách mạng tháng Tám. Sau cách mạng, hòa bình lập lại, những trang thơ của ông tràn ngập hơi thở sức sống mới, trong đó có bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. 2. Thân bài Phân tích hình ảnh đoàn thuyền ra khơi Hình ảnh mặt trời lặn trên mặt biển đỏ rực như hòn than cũng là thời điểm ngư dân bắt tay vào công việc thường ngày. Phân tích vẻ đẹp biển cả trong đêm ra khơi Dưới bút pháp lãng mạn của nhà thơ khung cảnh hiện lên vừa thực, vừa ảo, vẻ đẹp của biển cả đã tạo nên sức mạnh và niềm vui cho người lao động, giúp cho ngư dân có niềm tin chinh phục thiên nhiên, làm chủ cuộc đời. Phân tích công việc và tinh thần lao động của ngư dân Người ngư dân đi đánh cá cũng như đi đánh trận thực sự, họ thăm dò bãi cá, tìm thế trận để giăng lưới sao cho trúng luồng cá để được bội thu. Cuộc sống của ngư dân đã bao đời gắn liền với biển cả, họ thuộc biển, thuộc bao loài cá. Phân tích hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trở về Bóng dáng người ngư dân in trên nền trời hồng của rạng đông, họ choãi chân, nghiêng người và dồn hết sức mạnh vào đôi cánh tay kéo lên những mẻ lưới nặng trĩu. 3. Kết bài Khẳng định giá trị của bài thơ Có thể thấy, bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là một bài ca lao động đầy hứng khởi và hào hùng, không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên, biển cả mà còn ca ngợi những con người lao động trong thời kì mới, họ gan góc, cần cù và ngày đêm làm giàu cho đất nước. Soạn Bài Đoàn Thuyền Đánh Cá Đừng bỏ qua gợi ý soạn bài Đoàn thuyền đánh cá. 👉Câu 1 trang 142 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1 Không gian miêu tả trong bài thơ khoáng đạt, bao la, rộng lớn. Thời gian từ hoàng hôn đến bình minh ngày hôm sau. 👉Câu 2 trang 142 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1 – Hình ảnh người lao động và công việc của họ được miêu tả trong không gian rộng lớn của vũ trụ, giữa biển khơi bao la, tráng lệ. – Biện pháp nghệ thuật cảm hứng lãng mạn, bay bổng ; liệt kê, so sánh, nhân hóa thể hiện được sự phong phú của các loài cá, vẻ đẹp kì diệu và sự giàu có của biển khơi, hiện lên hình ảnh người lao động mới thật đẹp, thật hăng say, con người hòa quyện với vẻ đẹp thiên nhiên. 👉Câu 3 trang 142 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1 Một số hình ảnh đặc sắc – Cảnh biển vào đêm vừa rộng lớn vừa gần gũi với con người Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then đêm sập cửa Nhà thơ so sánh mặt trời như một hòn lửa đang từ từ lặn xuống biển. Trời và biển có sự giao hòa trọn vẹn. Mặt biển mênh mông, mát mẻ kia sẽ làm cho “Hòn lửa” mặt trời dịu êm đi. Nhà thơ đã liên tưởng vũ trụ là một ngôi nhà lớn, có màn đêm là cánh cửa khổng lồ, những con sóng là then cửa cài chặt cánh cửa đêm đen. Vũ trụ đi vào trạng thái nghỉ ngơi theo nhịp tuần hoàn của thời gian. 👉Câu 4 trang 142 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1 – Đây là khúc ca về lao động, tinh thần làm chủ và niềm vui phơi phới. – Âm hưởng, giọng điệu bài thơ khỏe khoắn, sôi nổi, phơi phới bay bổng. – Các yếu tố góp phần tạo nên âm hưởng bài thơ gieo vần biến hóa, vần trắc xen lẫn vần bằng, vần liền, vần cách… tạo âm vang cho tinh thần lao động. Nhịp thơ có khi đầy sức trẻ, sức lao động, có khi hân hoan những chùm cá nặng. 👉Câu 5 trang 142 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1 Trước thiên nhiên và con người lao động, tác giả có một cái nhìn tươi mới, tràn đầy cảm xúc hào hứng. Mỗi hình ảnh thơ đều mang sức sống, mang niềm vui, cuốn theo tình yêu say đắm, mãnh liệt trước biển khơi bao la, hùng vĩ, giàu có vô tận của nhà thơ cánh cửa vũ trụ với hòn lửa mặt trời, cá bạc, cá thu, cá nhụ, cá chim,…, người lao động hăng say làm việc. Đây chính là cái nhìn tin tưởng, phấn khởi của nhà thơ trước cuộc đời mới. Cùng cập nhật tác phẩm HOT 💌 Chiếc Lược Ngà 💌 Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích Giáo Án Đoàn Thuyền Đánh Cá Tham khảo nội dung giáo án Đoàn thuyền đánh cá sau đây. I. Mục tiêu bài học – Thông qua bài học giúp học sinh hiểu đuợc 1. Kiến thức – HS có những hiểu biết bước đầu về t/g Huy Cận và h/c ra đời của bài thơ. – Bố cục của bài thơ và hình ảnh ng lao động trong thiên nhiên. – Cảm hứng về lao động, đa dạng trước cuộc sống mới, ngôn ngữ tinh tế 2. Kĩ năng – Đoc diễn cảm một t/p thơ hiện đại. Phân tích đc một số chi tiết nghẹ thuật trong bài thơ. 3. Thái độ – Gd ý thức ham học biết yêu thiên nhiên, yêu lao động và tự hào về đất nước, con người lao động. II. Chuẩn bị tài liệu 1. Giáo viên + Soạn bài, đọc các tài liệu tham khảo, tài liệu chuẩn kiến thức kĩ năng. 2. Học sinh + Đọc trước bài, chuẩn bị bài trả lời câu hỏi đọc hiểu, làm bài tập sách GK III. Tiến trình tổ chức dạy học 1. Ổn định tổ chức * Kiểm diện Sĩ số 9A 9C 2. Kiểm tra – GV kiểm tra việc chuẩn bị bài của học sinh H Hãy nêu những cảm nhận của em về hình ảnh những chiến sĩ lái xe Trường Sơn trong bài “Bài thơ về tiểu độ xe không kính”? 3. Bài mới – Đoàn thuyền đánh cá là 1 bài thơ đặc sắc trong chùm thơ của Huy Cận viết về vùng trời, vùng mỏ, vùng biển Quảng Ninh- Hạ Long ca ngợi cuộc sống lao động tập thể tràn ngập niềm vui lãng mạn, hào hứng của những người dân đánh cá xa bờ. Hoạt động của GV và HSKiến thức cần đạtHĐ1. HDHS đọc và tìm hiểu chú thích– GV hướng dẫn hs cách đọc giọng vui, phấn chấn nhịp vừa phảiKhổ 2, 3, 7 giọng đọc cần cao hơn , nhịp nhanh hơnGv đọc mẫu 1 đoạn – 2hs đọc văn bảnGv nhận xét cách đọcI. Đọc và tìm hiểu chú thích1. Đọc– HS đọc chú thích SGK? Em hãy nêu những nét cơ bản về nhà thơ Huy Cận?2. Chú thícha Tác giả Tên đầy đủ là Cù Huy Cận 1919 – 2005 quê Hà Tĩnh– Ông là nhà thơ nổi tiếng của phong trào Thơ mới với tập “Lửa thiêng” 1940– Thơ ca sau cách mạng tràn ngập niềm vui tươi, tình yêu cuộc sống là 1 trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại VN– Năm 1996 ông được trao tặng giải thưởng HCM về văn học nghệ thuật– Tác phẩm chính Lửa thiêng 1940; Trời mỗi ngày lại sáng1958H Bài thơ được ra đời trong hoàn cảnh nào? in trong tập thơ nào của tgiả? HC có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ QNinh . Sau đó hồn thơ HC thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về TN đất nước lao động và niềm vui trước cuộc sống mới– GV so sánh 2 bài thơ Tràng Giang trước CMT8 và Đoàn thuyền đánh cá sau CMT8b Tác phẩm– Bài thơ được sáng tác năm 1958 và in trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng” nhân chuyến ông đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ QNinhc Từ khó SGKHđ2. HDHS đọc – hiểu văn bản– Bài thơ được triển khai theo trình tự chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh Dựa vào trình tự ấy xác định bố cục của bài thơ? Nội dung của mỗi đoạn là gì?II. Đọc hiểu văn bản1. Thể loại – Phương thức biểu đạt– Thơ tự do– PTBĐ Biểu cảm+kết hợp miêu tả2. Bố cục* Gồm 3 đoạn– Hai khổ đầu Cảnh đoàn thuyền ra khơi và tâm trạng náo nức của con người– Bốn khổ tiếp Cảnh hoạt động của đoàn thuyền trên biển ban đêm– Khổ cuối Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về.– HS đọc diễn cảm 2 khổ thơ đầuBài thơ là những bức tranh lộng lẫy lung linh sắc màu , vang động âm thanh, vừa thực vừa lãng mạn về TN và lao động . Trước hết là cảnh đoàn thuyền ra khơi trong thời điểm hoàng hôn buông xuống và tâm trạng con Hình dung của em về cảnh hoàng hôn xuống biển dựa theo liên tưởng và tưởng tượng của nhà thơ?H Hai câu thơ đầu tgiả sử dụng biện pháp nghệ thuật nào? Tác dụng của biện pháp nghệ thuật ấy?3. Phân tícha Cảnh đoàn thuyền ra khơi và tâm trạng con người* Cảnh thiên nhiên“Mặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then, đêm sập cửa”– NThuật + So sánh mặt trời như quả cầu lửa khổng lồ đang từ từ lặn xuống biển-> hoàng hôn đẹp rực rỡ, trỏng lệ. + Nhân hoá vũ trụ như ngôi nhà rộng lớn mà màn đêm là tấm cửa, lượn sóng như những then cài cửa. Vũ trụ th/nhiên là ngôi nhà vĩ đại mà mẹ tạo hoá đã ban tặng cho con ng.⇒ Biển cả hùng vĩ, mênh mông, tráng lệ như thần thoại . Sự sống của biển cả đang dần khép lại đi vào trạng thái nghỉ ngơi trong khi hoạt động của con người mới bắt Đặt trong cảnh TN trên, con người ra khơi trong cảm hứng nào?H Từ “lại” trong câu “Đoàn thuyền lại ra khơi” có hàm ý gì? Em hiểu câu hát “căng buồm” ntn? gợi mơ ước gì của người đánh cá?* HĐ của con người“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơiCâu hát căng buồm cùng gió khơi”– Từ “lại” diễn tả hoạt động thường xuyên lặp đi lặp lại.– Câu hát căng buồm → niềm vui, lạc quan tin tưởng của người lao động.– Bài ca gọi cá + Nghệ thuật liệt kê, so sánh, nhân mạnh sự phóng phú, rực rỡ đẹp đẽ của các loài cá, sự giàu có của biển, đồng thời thể hiện niềm mong ước đánh bắt được nhiều hải sản xây dựng cuộc sống mới,làm giàu quê hương đất Nhận xét về khí thế của đoàn thuyền ra khơi?H Trong đoạn đầu có sự đối lập giữa hoạt động của thiên nhiên với hoạt động của con người . Diễn giải sự đối lập này? ý nghĩa của sự đối lập?⇒ Đoàn thuyền ra khơi đầy khí thế, hào hùng, phấn khởi, lạc quan của những ng l/đ đc làm chủ làm chủ cuộc đời đi chinh phục thiên nhiên. 4. Củng cố – luyện tập 1. Hai khổ thơ đầu của bài thơ diễn tả điều gì? 2. Biện pháp tu từ nào được dùng trong hai câu thơ sau “Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then đêm sập cửa” 5. Hướng dẫn học sinh về nhà – Học thuộc lòng bài bị tiếp nội dung còn lại. Khám phá thêm tác phẩm ⚡ Lặng Lẽ Sa Pa ⚡ Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích Sơ Đồ Tư Duy Đoàn Thuyền Đánh Cá Tổng hợp thêm các mẫu sơ đồ tư duy Đoàn thuyền đánh cá. Sơ đồ tư duy Đoàn thuyền đánh cá đầy đủ thông tin Sơ đồ tư duy Đoàn thuyền đánh cá đầy đủ Sơ đồ tư duy Đoàn thuyền đánh cá chi tiết Sơ đồ tư duy Đoàn thuyền đánh cá dễ hiểu Sơ đồ tư duy Đoàn thuyền đánh cá chi tiết nhất Tham khảo tác phẩm 💚 Làng [Kim Lân] 💚 Sơ đồ tư duy, phân tích hay nhất 5 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá Hay Nhất Chia sẻ cho bạn đọc 5 mẫu phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá hay nhất. Phân Tích Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá Đặc Sắc – Mẫu 1 Huy Cận là một đại biểu xuất sắc của phong trào thơ mới và là một nhà thơ lớn của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Ông có nhiều tác phẩm như lửa thiêng, vũ trụ ca, hạt lại gieo… trong đó có bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc về thiên nhiên, vũ trụ với cảm xúc của người lao động. Mở đầu bài thơ là cảnh đoàn thuyền đánh cá ra ngoài biển trong thời khắc màn đêm dần bao xuống. “Mặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then, đêm sập thuyền đánh cá lại ra khơi,Câu hát căng buồm cùng gió khơi.” Tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa để miêu tả cảnh hoàng hôn, miêu tả cảnh đất trời đang đi dần vào bóng tối. Hình ảnh trong hai câu thơ đầu tiên là một hình ảnh liên tưởng khá đẹp về hoàng hôn “mặt trời” được so sánh giống như “hòn lửa” tạo nên một gam màu rực rỡ trong buổi hoàng hôn. Hình tượng “sóng cài then”, “đêm sập cửa” là những động từ mạnh miêu tả cảnh đất trời chuyển giao giữa ngày và đêm một cách chóng vánh. “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi”, tác giả dùng từ “lại” với ý nghĩa là hành động lặp lại mỗi ngày của người dân làng chài vùng biển. Họ ra khơi đánh cá, ra khơi để kiếm nguồn sống, những người lao động vùng biển vất vả trong khi những người khác sắp sửa đi vào giấc ngủ thì những con người lao động nơi đây lại thức đêm đánh cá. “Câu hát” gợi lên vẻ thanh bình mà cũng không kém phần nhộn nhịp. Người lao động ra khơi trong một tâm thế lạc quan, yêu đời, yêu nguồn sống, nên vừa ra khơi họ vừa hát. Hát để lấy sức căng buồm, hát để chèo thuyền, lái thuyền, hát để mọi người cảm nhận được niềm vui sướng trong mỗi chuyến tàu ra khơi. “Hát rằng cá bạc biển Đông lặng,Cá thu biển Đông như đoàn thoiĐêm ngày dệt biển muôn luồng dệt lưới ta, đoàn cá ơi!” Câu hát vang vọng nơi đất trời, câu hát tạo nguồn sống, tạo niềm tin cho người lao động vùng biển. Lời hát ngợi ca sự giàu có và hào phóng của biển cả cùng vẻ đẹp lung linh, diệu kỳ của nó trong đêm. “Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng”, hình ảnh của những chiếc thuyền đánh cá trong đêm với ánh sáng từ nhiều nguồn khác nhau rọi xuống ánh sáng từ trăng, ánh sáng từ những chiếc đèn pin của ngư dân, hòa sắc màu tạo nên vùng sáng long lanh dưới mặt nước. Chính nguồn sáng đó đã tạo cho mặt biển lấp lánh mà tác giả đã khéo léo đặt nó bên từ “dệt”. Một cảm giác hài hòa “dệt” giống như bàn tay mảnh mai của con người tạo nên những tấm lụa phát sáng ngay trên mặt biển. “Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi”, một vụ cá đánh bắt xa bờ mong muốn thu được mẻ cá lớn để người lao động vùng biển được vui tươi, được no đủ. Bằng tài năng sử dụng bút pháp lãng mạn kết hợp với độ liên tưởng phong phú của nhà thơ mà bức tranh thiên nhiên hiện lên vừa thực lại vừa ảo. “Thuyền ta lái gió với buồm trăngLướt giữa mây cao với biển bằng,Ra đậu dặm xa dò bụng biển,Dàn đan thế trận lưới vây giăng.” Thiên nhiên, đất trời hòa quyện cùng với con người tạo nên một hình ảnh tuyệt đẹp trong liên tưởng của tác giả. Những hình ảnh “lái gió”, “buồm trăng”, “mây cao”, “biển bằng” là những hình ảnh đẹp mang đậm chất hiện thực. Mỗi một chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá cũng như tham gia đánh trận, cùng phải dàn binh, bố trận, cũng phải có vũ khí, cũng phải thăm dò, cũng phải đối chọi với thiên nhiên đất trời nơi bão bùng, sóng lớn… Một trận chiến với cá cũng khiến cho con người phải suy nghĩ, phải sống chiến đầu với thiên nhiên nhưng cũng phải hòa quyện cùng với thiên nhiên để tạo ra một tâm thế tốt, một cảnh sắc hài hòa và có nhịp điệu trong cuộc sống. Trong khổ thơ nối tiếp cuộc sống lao động của người lao động, tác giả đã chuyển tiếp sang miêu tả cảnh biển giàu có nguồn cá. “Cá nhụ cá chim cùng cá đé,Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe,Đêm thở sao lùa nước Hạ Long.” Có rất nhiều loại cá cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song… biện pháp liệt kê đã nhấn mạnh sự giàu có của biển cả. Lòng đại dương mênh mông rộng lớn, là nơi chứa những nguồn hải sản quý giá. Những hình ảnh chân thực mà ảo diệu đến tinh tường, dưới ánh trăng lấp lánh, dưới mặt nước phản chiếu lung linh, những chú cá quẫy đuôi mình để vùng vẫy, để tự do bơi lội thoải mái cũng đã mắc giăng mẻ lưới của con người. Tiếng “đêm thở”, tác giả đã dùng biện pháp nhân hóa hình ảnh của màn đêm. Tiếng thở ấy, có lẽ là tiếng thở của chính những con người lao động vất vả trên mặt biển để mang về những sản phẩm sau một đêm dài lênh đênh nơi sóng nước. Màn đêm tĩnh mịch hòa cùng tiếng thở của con người tự như chính màn đêm đang thở vậy. Một hình ảnh rất đẹp mà lại rất gần gũi. “Ta hát bài ca gọi cá vào,Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,Biển cho ta cá như lòng mẹ,Nuôi lớn đời ta tự buổi nào” Những hình ảnh giản dị lần lượt hiện lên qua khổ thơ. Tiếng hát một lần nữa lại được tác giả nhắc lại, phải chăng đó chính là tiếng hò dô của con người khi kéo được mẻ cá nặng. Tiếng hát, cùng với tiếng nhịp thuyền gõ vào mạn thuyền để gọi cá, vừa có lời bài hát, vừa có tiết tấu. Một hình ảnh đẹp hiện ra trước mắt ta như một đoàn hợp xướng chuyên nghiệp trên sân sấu. Đó là những hình ảnh rất đẹp, rất giản dị mà lại rất gần gũi. Tác giả so sánh biển như lòng mẹ, lòng mẹ thì có bao giờ lại độc với con cái của mình, người mẹ bao giờ cũng mang đến cho người con những gì là của con nhất, mang đến cho người con những gì mà người con cần nhất. Vì mẹ là mẹ, mẹ là người phụ nữ hy sinh cho con rất nhiều. Mẹ đã nuôi lớn ta từ khi ta còn trong lòng mẹ, cũng giống như biển cả cho con người lao động những mẻ cá để nuôi lớn con người, rồi cứ thế hệ này tới thế hệ khác. “Sao mờ kéo lưới kịp trời sángTa kéo xoăn tay chùm cá nặngVảy bạc đuôi vàng lóe rạng đôngLưới xếp buồm lên đón nắng hồng” Một vòng tròn quỹ đạo đang chuyển từ đầu đoạn thơ cho tới cuối đoạn thơ. Đoàn thuyền ra khơi từ lúc mặt trời xuống biển cho tới lúc mặt trời mọc, bình minh bắt đầu cho một ngày mới lên. Có thể nói, tác giả đã từng quan sát rất kỹ, đã từng trải nghiệm và cảm nhận về cuộc sống của người lao động làng chài rất kỹ mới có thể viết lên những câu thơ đẹp đẽ đến như thế. “Kịp trời sáng”, “xoăn tay”, “rạng đông”, “nắng hồng” là những từ ngữ được sắp xếp rất đều đặn, rất đẹp, rất có ý tứ. Câu thơ đã nói lên thành quả lao động của con người, sản phẩm họ thu được là thành quả của một đêm dài lao động trên biển một đêm dài lênh đênh trên sóng nước. Phần cuối bài thơ là hình ảnh đoàn cá trở về “Câu hát căng buồm cùng gió khơiĐoàn thuyền chạy đua cùng mặt trờiMặt trời đội biển nhô màu mớiMắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.” Câu hát cuối bài thơ mang một tâm thế vui tươi, thoải mái, những chiếc thuyền đang tức tốc quay về bờ, hải sản mà người lao động thu được sau một đêm dài miệt mài làm việc cũng đã được báo đáp. Đoàn thuyền lao vun vút trên mặt biểu, “Mặt trời đội biển nhô màu mới” một màu hồng rạng rỡ, tinh khôi, và ánh mặt trời phản chiếu trong muôn ngàn mắt cá trên thuyền, khiến nhà thơ liên tưởng tới hàng ngàn mặt trời nhỏ xíu đang tỏa sáng niềm vui. Đến đây, bức tranh biển cả ngập tràn sắc màu tươi sáng và ăm ắp chất sống trong từng dáng hình, đường nét của cảnh, của người. Cảnh bình minh thật huy hoàng nhưng người lao động không kịp ngắm nó, hầu như mọi tâm trí của họ chỉ tập trung vào công việc lao động. Đây chính là tinh thần lao động của nhân dân ta trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Với bút pháp nghệ thuật kết hợp với trí tưởng tượng phong phú, tác giả đã khái quát hóa hình ảnh người lao động qua những vần thơ làm cho người đọc như đang chứng kiến cảnh lao động của người dân vùng chài. Hình ảnh đẹp mà giản dị, giọng văn tinh tế mà lôi cuốn, bài thơ đã tạo chất nhạc, đã tạo nên khí thế cho người lao động thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà thơ đưa ta từ những hình ảnh này đến những hình ảnh khác vừa đẹp mà lại phong phú và hấp dẫn. Không khí lao động hang say cùng với cảnh đẹp của thiên nhiên đất trời mang lại một nguồn sống mới cho con người trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa. Bài thơ là động lực giúp cho người lao đọng vươn lên chính mình, vươn lên trong cuộc sống, xây dựng cuốc sống tốt đẹp, hạnh phú và gặt hái được nhiều thành công. Phân Tích Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá Chọn Lọc – Mẫu 2 Năm 1958, trong không khí phấn khởi thi đua của toàn miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhà thơ Huy Cận trong một dịp đi thực tế ở vùng biển Quảng Ninh đã sáng tác bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Với âm hưởng vừa khỏe khoắn, vừa sôi nổi lại vừa phơi phới bay bổng, bài thơ đã ca ngợi sự giàu đẹp của vùng biển quê hương và tinh thần lao động hăng say, phấn khởi của người lao động được giải phóng hăng hái làm việc cho đất nước. Với đôi mắt quan sát tinh tế, trí tưởng tượng phong phú, trái tim nhạy cảm và nghệ thuật điêu luyện, nhà thơ đã vẽ ra một khung cảnh lao động tuyệt đẹp. Mở đầu bài thơ, tác giả gắn liền không gian và thời gian đoàn thuyền đánh cá ra khơi Mặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then, đêm sập cửa. Một bức tranh thiên nhiên đẹp, có cái thoáng rộng của không gian và thời gian của một ngày đang khép lại. Trong cái mênh mông ấy nổi bật lên hình ảnh mặt trời được ví “như hòn lửa” đỏ rực gợi tả màu sắc sinh động của buổi hoàng hôn trên biển đang chuyển về đêm. Đó cũng là cảnh tượng ấn tượng nhất của đại dương trước khi đi vào yên nghỉ trong đêm. Miêu tả mặt trời, nguyễn tuân cung có điểm nhìn tương như thế “Tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng. Lòng đỏ trứng khổng lồ đặt lên một cái mâm bạc rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng. Y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông”. Bầu trời và mặt biển bao la như ngôi nhà vũ trụ trong khoảnh khắc đã phủ bóng tối mịt mùng, còn những con sóng như chiếc “then cài” của ngôi nhà vĩ đại ấy. Biện pháp nhân hóa “sóng đã cài then, đêm sập cửa” khiến thiên nhiên như những con người biết hoạt động, biết nghi ngơi. Cảm hứng vũ trụ, biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa đã tạo nên những vần thơ đẹp cho người đọc nhiều ấn tượng. Khi vũ trụ đi vào trạng thái nghỉ ngơi thì con người bắt đầu hoạt động Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,Câu hát căng buồm cùng gió khơi.” Không phải từng chiếc thuyền lẻ tẻ mà là cả một “đoàn thuyền”, một sức mạnh mới của cuộc đời đổi thay đang bắt đầu căng buồm. Từ “lại” trong cụm từ “lại ra khơi” là sự khẳng định nhịp điệu lao động của người dân chài đã ổn định, đã đi vào nề nếp. Đoàn thuyền ra khơi với khí thế căng trào. Cảnh tượng ấy thể hiện qua nghệ thuật tương phản giữa cảnh ngày tàn với đêm mở ra, giữa cái tĩnh vũ trụ và cái động con người. Nhạc điệu cũng có sự đối lập tả vũ trụ với những vần trắc liên tiếp lửa-cửa như khép lại, và những vần bằng khơi – khơi như mở ra, ngân nga kéo dài. Sự đối lập ấy giúp người đọc cảm nhận được nỗi vất vả của việc đánh cá về đêm. Công việc đánh cá ban đêm trên biển là công việc nặng nhọc, đầy bất trắc nhưng đoàn quân xông trận vẫn cất cao tiếng hát. Tiếng hát vút lên cùng với những cánh buồm lộng gió “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”. Một chi tiết lãng mạn đầy sáng tạo được xây dựng bằng trí tưởng tượng, liên tưởng, khiến ta tưởng như tiếng hát hòa cùng gió mạnh thổi căng cánh cánh buồm đẩy thuyền rẽ sóng – ra khơi. Cánh buồm no gió, tràn căng tiếng hát biểu hiện niềm lạc quan, tin tưởng, phấn khởi, nhiệt tình tác động của đoàn thuyền. Vẫn nhịp thơ sôi nổi, hào hứng, khổ thơ tiếp theo là nội dung lời hát thể hiện tâm tư người lao động Hát rằng cá bạc biển Đông lặng,Cá thu biển Đông như đoàn thoiĐêm ngày dệt biển muôn luồng dệt lưới ta, đoàn cá ơi! Đó chính là ước mơ của bất kỳ người dân biển nào, ước mơ trời yên bể lặng, mong mỏi đánh bắt được nhiều cá và là niềm say mê sự giàu đẹp của quê hương. Niềm ước mong ấy phản ánh tấm lòng đôn hậu của những ngư dân từng trải qua nhiều nắng gió, bão tố trên biển. Lời thơ là một trường liên tưởng nối tiếp với những hình ảnh so sánh, nhận hóa sinh động. Từng đàn cá thu lao trên mặt biển như “đoàn thoi” dệt biển. Con thoi mang sợi tơ dệt vải thì cá thu mang ánh sáng phản chiếu lấp lánh dệt nên muôn luồng sáng lung linh, kỳ ảo trên thảm biển. Và từ đó, tác giả liên tường tiếp “Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”. Thật là một sự tưởng tượng độc đáo. Từ hình ảnh đoàn cá “dệt biển” mà kêu gọi “đến dệt lưới ta” đã nói lên ước vọng đánh bắt được thật nhiều cá. Quả thật, sự say mê vẻ đẹp của biển đã làm giảm bớt bao nỗi nhọc nhằn, vất vả, đem lại niềm vui và sức mạnh cho con người chinh phục thiên nhiên. Những từ ngữ trong khổ thơ là bạc”, “cá thu”,”đoàn cá”, “dệt biển”, “dệt lưới” khiến câu hát như một điệp khúc nhấn mạnh sự giàu đẹp của biển cả quê hương. Hai khổ thơ có giá trị tạo hình đặc sắc, vẽ lại bức tranh lao động hoành tráng, tràn ngập ánh sáng và màu sắc, tràn đầy sức sống mãnh liệt. Trong đó con người đã hòa hợp với thiên nhiên hùng vĩ, bao la và thậm chí, vượt qua cả thiên nhiên nữa. Mở đầu khổ thứ ba là hình ảnh đoàn thuyền lướt đi giữa trời cao biển rộng có cái lân lân, sảng khoái lạ thường Thuyền ta lái gió với buồm trăngLướt giữa mây cao với biển bằng,Ra đậu dặm xa dò bụng biển,Dàn đan thế trận lưới vây giăng. Lời thơ vẽ ra một bức tranh lông lộng trời mây, mênh mông biển cả. Hình ảnh đoàn thuyền được làm đẹp thêm bởi một sức tưởng tượng kỳ lạ, giàu chất lãng mạn thuyền lái gió, trăng là cánh buồm. Cách nói như vậy giúp ta cảm nhận được thuyền và con người như hòa nhập vào thiên nhiên bát ngát, lâng lâng trong cái thơ mộng của trời, biển, gió, trăng. Từ “lướt” đặc tất cảnh đoàn thuyền ra khơi với vận tốc phi thường; thiên nhiên cùng góp sức với con người trên con đường lao động và khám phá. Tư thế ra khơi nhẹ nhàng, thoải mái, đầy khí thế đó chỉ có ở những con người vừa thoát khỏi kiếp sống nô lệ, được làm chủ sản xuất, làm chủ đất trời, sông biển của mình. Nhưng lao động không phải là một cuộc du ngoạn. Hai câu thơ tiếp khắc họa hình ảnh một trận đánh, một cuộc chiến đấu với thiên nhiên bằng tất cả trí tuệ và năng lực nghề nghiệp. Nhịp thơ càng hối hả lôi cuốn. Bên cạnh cái ung dung, sảng khoái của người dân chài, ta vẫn cảm nhận được nỗi vất vả của người lao động. Họ phải vượt bao dặm biển trong trời đêm, rồi phải “dò bụng biển”, tìm ra bãi cả, “dàn đan thế trận” để bủa lưới bắt cá. Lúc này, mỗi thủy thủ là một chiến sĩ, một chiến sĩ trên biển và con thuyền, mái chèo, lưới, các ngư cụ khác chính là vũ khí của họ. Huy Cận phải có sự am hiểu sâu sắc về nghề chài lưới này và lòng thông cảm với người lao động mới vẽ được bức tranh vừa hiện thực, sinh động mà lãng mạn ấy. Bức tranh lao động được tô điểm bằng vẻ đẹp của thiên nhiên. Cái nhìn của nhà thơ đối với biển và cá cũng có những sáng tạo bất ngờ, độc đáo Cá nhụ cá chim cùng cá đé,Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé,Đêm thở sao lùa nước Hạ Long. Bút pháp lãng mạn và trí tưởng tượng của nhà thơ dẫn ta vào một cõi huyền ảo của biển trời với bao nhiêu loài cá mang màu sắc lung linh kì ảo dưới ánh trăng. Nghệ thuật liệt kê và điệp từ “cá” như khắc họa rõ từng đường nét, góp phần làm biển trở nên thơ mộng vô cùng. Cách diễn tả như vậy giúp ta cảm nhận được cái giàu đẹp của biển, vì tất cả ánh sáng, màu sắc đều là của cá và do cá tạo nên. Con cá song là một nét vẽ tài hoa. Vảy đen, hồng, lấp lánh trên biển, chan hòa trong ánh trăng “vàng choé”. Cái đuôi cá quẫy được so sánh với ngọn đuốc rực cháy. Nghệ thuật phối màu tài tình làm cho vần thơ đẹp như một bức tranh sơn mài rực rỡ. Bầy cá như những nàng tiên trong vũ hội Cảnh đẹp không chi ở màu sắc, ánh sáng, mà còn ở âm thanh. Nhìn đàn cá bơi lượn, nhà thơ lẳng nghe tiếng sóng vỗ rì rầm. Đêm được nhân hóa như một sinh vật của đại dương; “Đêm thở”. Nhịp thở của đêm là tiếng sóng vỗ rì rào, cao thấp. Sao phản chiếu lấp lánh trên từng đợt sóng “lùa”, mặt nước càng làm tiếng thở có vẻ kỳ ảo. Nó là sự độc đáo, mới lạ trong sáng tạo nghệ thuật. Lao động trong một khung cảnh nên thơ như vậy quả là thú vị. Cùng với chất lãng mạn, bay bổng, người dân chài cất lời hát tả lại công việc lao động với niềm tự tin và yêu đời mãnh liệt Ta hát bài ca gọi cá vào,Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,Biển cho ta cá như lòng mẹ,Nuôi lớn đời ta tự buổi nào. Bài hát căng buồm đưa đoàn thuyền ra khơi, bài hát lại vang lên trong công việc, biến lao động cực nhọc thành niềm vui. Lời ca gọi cá vào lưới nâng cao thêm chất thơ mộng của bức tranh. Người dân chài gõ thuyền xua cá vào lưới, ng đây không phải là con người mà ánh trăng trăng in xuống dòng nước, sóng vỗ vào mạn thuyền thành hình ảnh “nhịp trăng” gõ thuyền. Hiện thực được trí tưởng tượng sáng tạo thành hỉnh ảnh lãng mạn, giàu chất thơ. Cái nhìn của nhà thơ đối với biển cả và con người là cái nhìn tươi tắn, lạc quan, ông như hòa nhập vào công việc, vào con người, vào biển cả. Từ đó, cảm xúc dâng trào, không thể không cất lên tiếng hát ca ngợi biển “Biển cho ta cá như lòng mẹNuôi lớn đời ta tự thuở nào” Biển ta giàu đẹp. Biển ta bao dung. Biển đem hạnh phúc đến cho con người. Biển hào phóng cho con người nhiều tôm cá, muối, hải sản… Biển như lòng mẹ đã nuôi sống dân chài từ bao đời nay. Giọng thơ tự nhiên, tha thiết, chân thành có âm hưởng ca dao. Hình ảnh so sánh “như lòng mẹ” quen thuộc, có sức truyền cảm mãnh liệt, thể hiện tình yêu biển, yêu đời chan chứa của những con người gắn bó với biển từ bao đời, bao thế hệ. Bóng đêm đang dần tàn, một đêm trôi qua thật nhanh trong nhịp điệu lao động hào hứng, hăng say. Trên bầu trời, sao đã thưa và mờ. Ngày đang đến, nhịp độ lao động ngày càng khẩn trương, cảnh kéo lưới được miêu tả đầy ấn tượng. Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng,Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông,Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng. Nhịp thơ 2-2-3 phù hợp với nhịp lao động khẩn trương. Hình ảnh “kéo xoăn tay” miêu tả dáng người dân chài mạnh mẽ, nghiêng mình trụ vững, dồn tất cả sức mạnh vào đôi cánh tay cuồn cuộn trông mới đẹp làm sao! Trong cái “chùm cá nặng”như có sức ẩn chứa bao niềm vui tươi, sung sướng của người ngư dân trước thành quả mà họ đã tốn bao công sức mới thu hoạch được. Lưới kéo lên, những tia nắng sớm chiếu trên khoang” cá đầy làm lấp lánh màu sắc. Khoang thuyền đầy ắp cá. Màu của vẩy cá, màu vàng của đuôi cá “lóe rạng đông”. Nghệ thuật dùng từ của tác giả thật điêu luyện, sắc cá dưới ánh trăng và sắc cá dưới ánh bình minh đều được miêu tả tuyệt đẹp . Những câu thơ có màu sắc rực rỡ, nó mang lại thi vị, vẻ hấp dẫn riêng cho việc kéo lưới bình thường. Câu thơ cuối nhẹ thơ gọn, dứt khoát kết thúc một cuộc hành trình gian nan. Lời thơ giản dị biểu hiện niềm thư thái của con người lưới xếp nghỉ, kéo buồm lên, trở về trong buổi bình minh. “Nắng hồng” không những khắc họa được vẻ đẹp tươi sáng của bầu trời mà còn thể hiện được lòng yêu đời, yêu thiên nhiên. Màu hồng của một ngày mới, một cuộc đời mới đang chào đón mọi người. Câu hát căng buồm với gió khơi,Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời đội biển nhô màu mớiMắt cá huy hoàng muôn dặm phơi. Bài thơ kết thúc bằng một hình ảnh đẹp của một ngày mới, đoàn thuyền trở về với cá đầy áp mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi. Mở đâu bài thơ là hình ảnh “mặt trời xuống”, giờ là “mặt trời đội biển” nhô lên giữa những sóng nước mênh mông. Không khí lao động cực kỳ phấn khởi bởi niềm vui chiến thắng, bởi thái độ nhiệt tình, yêu lao động. Bài thơ khép lại nhưng mở ra một tương lai tươi sáng hơn trong công cuộc xây dựng đất nước. “Đoàn thuyền đánh cá” là một bài ca lao động hăng say, hào hùng. Băng bút pháp lãng mạn, nhịp thơ khỏe với trí tưởng tượng mới mẻ, độc đáo, Huy Cận đã ca ngợi sự giàu đẹp của biển quê hương, và đặc biệt là hình ảnh người lao động được miêu tả với nhiêu vẻ đẹp sự sảng khoái của người làm chủ đất nước, nhiệt tình lao động với tất cả tình yêu biển, yêu nghề. Vì vậy, đọc bài thơ ta càng thêm yêu đất nước và con người lao động Việt Nam. Bài thơ lặp lại 4 lần chữ “hát” thực chất là một bài ca, một tráng khúc vê lao động và vê thiên nhiên đất nước giàu đẹp. Khúc ca ấy vừa hào hứng, vừa phơi phới và khỏe khoắn, mạnh mẽ, kết hợp với sự vận động tuần hoàn của thiên nhiên vũ trụ. Chính vì vậy, “Đoàn thuyền đánh cá” được xem như bước khởi đầu trong cảm hứng mới về thiên nhiên đất nước và niềm tin ở cuộc sống mới đang sôi động. Niềm tin ấy đã giúp nhà thơ có tinh thần lạc quan và yêu đời hơn. Đoàn thuyền đánh cá thể hiện nguồn cảm hứng lãng mạn ngợi ca biển cả lớn lao, giàu đẹp, ngợi ca nhiệt tình lao động vì đất nước giàu đẹp của những người lao động mới. Bài thơ khắc hoạ thành công hình ảnh đẹp đẽ, tráng lệ, thể hiện sự hài hoà giữa thiên nhiên và người lao động, đồng thời bộc lộ niềm tự hào của tác giả trước sự hồi sinh của đất nước và cuộc sống con người. Phân Tích Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá Nổi Bật – Mẫu 3 Nếu trước cách mạng, hồn thơ Huy Cận mang nỗi buồn vạn kỷ thì sau chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Quảng Ninh làm nảy nở trở lại thi hứng của nhà thơ. Bài thơ “ Đoàn thuyền” ra đời trong thời gian ấy, đó là niềm vui trước cuộc sống hối hả và thiên nhiên đất nước. Cuộc hành trình của đoàn thuyền đánh cá mở ra ba khoảng không, thời gian khác nhau ra khơi, đánh cá và khi trở về. Không gian đất trời rộng lớn được khắc họa qua vài nét chấm phá tài hoa, hình ảnh một ngày tàn hiện lên thơ mộng nơi biển cả mênh mông “Mặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then đêm sập cửa” Hình ảnh so sánh độc đáo ông mặt trời khổng lồ như hòn lửa đang từ từ lặn xuống phía đại dương và gồng mình gom lại những tia nắng trong ngày tạo nên không gian hùng vĩ. Liên tưởng táo bạo của tác giả kết hợp với biện pháp nhân hóa biến “ sóng” như một sinh thể cài cửa khi màn đêm buông xuống. Qua đó giúp người đọc hình dung vũ trụ như một ngôi nhà lớn chứa đầy bí ẩn sau bức màn đen huyền bí. Bóng tối bao trùm là lúc các hoạt động tạm dừng lại nhưng hình ảnh đoàn thuyền đánh cá phác họa trên nền bức tranh rộng lớn “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơiCâu hát căng buồm cùng gió khơi” Hình ảnh hoán dụ “ đoàn thuyền, câu hát” chỉ người dân chài lưới bắt đầu cuộc hành trình khám phá đại dương bao la. Câu ca ngân vang gợi khí thế hào sảng, tươi vui tràn đầy năng lượng. Tinh thần lạc quan ấy ta từng bắt gặp trong dòng suy nghĩ của ông lão đánh cá trong tiểu thuyết “ Ông già và biển cả”. Lời hát cất lên thật ý nghĩa “Hát rằng cá bạc biển Đông lặng,Cá thu biển Đông như đoàn thoiĐêm ngày dệt biển muôn luồng dệt lưới ta, đoàn cá ơi!” Câu hát luôn đồng hành cùng chặng đường gian nan phía trước của người dân chài. Họ ngợi ca sự giàu có của biển Đông “ cá bạc, cá thu như đoàn thoi”, ý thơ gợi sự trù phú của biển cả “ rừng vàng biển bạc”, như thuyền trưởng Ne-mo trong tiểu thuyết “ Hai vạn dặm dưới đáy biển” từng tự hào về nguồn tài nguyên bất tận đó. Trong câu ca còn chứa đựng mong ước của người dân về một chuyến ra khơi bình an biển lặng, bội thu dệt lưới, từng đoàn cá như người bạn gần gũi song hành cùng đoàn thuyền. Chúng kết thành luồng sáng để dẫn đường cho họ và lời gọi “ đoàn cá ơi!” cũng khẳng định tình cảm đặc biệt giữa người dân và biển mẹ. Con thuyền no gió biển khơi lướt đi hiên ngang giữa lòng biển vô cùng khơi dậy hình ảnh sống động “Thuyền ta lái gió với buồm trăngLướt giữa mây cao với biển bằng,Ra đậu dặm xa dò bụng biển,Dàn đan thế trận lưới vây giăng.” Những chuyến ra khơi cô đơn bởi thiên nhiên ưu ái cũng kề vai sát cánh cùng con người. Bút pháp phóng đại gợi trong ta trưởng liên tưởng sức gió làm bánh lái đưa con thuyền ra biển căng tràn năng lượng như con tuấn mã, vầng trăng làm cánh buồm, thiên nhiên cũng góp sức cùng con người và người lao động đã làm chủ thiên nhiên. Một loạt động từ “ lướt, ra đậu, dò, dàn thế trận” không chỉ gợi tốc độ phi thường mà còn hành động dứt khoát của đoàn thuyền trước thế trận của biển cả. Điểm nhìn thay đổi, nhà thơ ghi lại sức sống của biển với vô vàn loài cá quý “ cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song”, khoảng không im lặng như nghe được tiếng thở của đại dương. Hình ảnh nhân hóa sáng tạo “ sao lùa nước Hạ Long” dường như những vì sao rơi xuống dòng chảy tạo nên nhịp sống bất tận. Lời ca vang lên gọi cá vào lưới có sự giúp đỡ của vầng trăng gõ vào mạn thuyền. Đồng thời câu hát thể hiện lòng biết ơn sâu sắc với biển mẹ hiền từ đã nuôi lớn những người con vùng biển “Biển cho ta cá như lòng mẹNuôi lớn đời ta tự thuở nào” Cuộc hành trình đầy vất vả nhưng niềm tin tưởng vào sức mình đã giúp họ vượt lên tất cả. Hình ảnh đoàn thuyền kéo lưới là lúc người dân chài gặt hái thành quả lao động “Ta kéo xoăn tay chùm cá nặngVẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.” Sức khỏe cường tráng của cơ bắp dồn lại để cất mẻ cá nặng, đó là món quà hậu hĩnh của thiên nhiên đáp trả công lao của người dân. Những chú cá nằm trong lưới ánh lên sắc tươi sáng rạng đông được liên tưởng như những sản vật quý hiếm “ vàng, bạc” của biển cả. Hình ảnh “ nắng hồng” gợi nét duyên dáng, trẻ trung của buổi bình minh trên biển. Trải qua một đêm dài trên biển, giờ đây đoàn thuyền lại chạy hết tốc lực trở về đất liền cho kịp phiên chợ sáng “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trờiMặt trời đội biển nhô màu mớiMắt cá huy hoàng muôn dặm khơi” Lời hát đầy lạc quan lại ngân vang chứa niềm tin, nghị lực sống bền bỉ của người dân làng chài. Chi tiết “ mặt trời” tỏa vầng sáng tươi mới khắc tạc một bình minh diễm lệ, huy hoàng. Nơi khoang thuyền đầy ắp cá cũng chứa đựng hàng ngàn mặt trời bé con, nới thắp sáng niềm vui sống mãnh liệt. Bằng thể thơ thất ngôn mang âm hưởng hào hùng, khỏe khoắn, nhà thơ Huy Cận không chỉ phác họa hình ảnh tráng lệ của thiên nhiên đất nước và cuộc sống lạc quan, hối hả của người dân lao động mà còn thể hiện tình yêu, niềm tự hào của một thi nhân. Phân Tích Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá Tiêu Biểu – Mẫu 4 Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam, đồng thời cũng là một nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ Mới. Thơ ông dồi dào cảm hứng về thiên nhiên, vũ trụ, và con người lao động. “Đoàn thuyền đánh cá” là một trong những bài thơ đặc sắc của Huy Cận, khi bằng bút pháp lãng mạn bay bổng, thi phẩm đã tái hiện sự hài hòa của vẻ đẹp thiên nhiên và con người lao động, qua đó bộc lộ niềm tự hào, niềm vui của tác giả trước cuộc sống mới. “Đoàn thuyền đánh cá” quả thực đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. “Đoàn thuyền đánh cá” ra đời vào năm 1958 in trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng”, khi đó miền Bắc đang bắt tay vào xây dựng xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh đó, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi này hồn thơ Huy Cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào cảm hứng về thiên nhiên đất nước và con người lao động, niềm vui trước cuộc sống mới. Bài thơ có bảy khổ thơ, được triển khai theo hành trình một chuyến ra khơi. Đó là cảnh đoàn thuyền ra khơi, tiếp nối là cảnh đánh cá trên biển và cảnh đoàn thuyền trở về. Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi khi hoàng hôn xuống được tác giả miêu tả sinh động trong hai khổ thơ đầu “Mặt trời xuống biển như hòn lửaSóng đã cài then, đêm sập cửaĐoàn thuyền đánh cá lại ra khơiCâu hát căng buồm cùng gió khơi” Mở đầu bài thơ là hình ảnh thiên nhiên, hình ảnh “mặt trời” vào cuối ngày, đang từ từ lặn vào dòng biển khơi, dưới sự liên tưởng phong phú của thi sĩ, mặt trời lại được nhân hóa như con người đang xuống biển, được so sánh như “hòn lửa” rực rỡ. Hình ảnh ấy đã gợi ra một không gian lung linh, tráng lệ tuyệt đẹp, mà rất ấm áp, gần gũi với con người. Cùng với “mặt trời”, “sóng” và “đêm” cũng được nhân hóa thực hiện những hành động “cài then”, “sập cửa” đánh dấu sự chuyển giao giữa ngày và đêm. Đây là những liên tưởng rất thú vị và đặc sắc. Thiên nhiên, vũ trụ như một ngôi nhà khổng lồ, với màn đêm là những cánh cửa đang đóng sập xuống, những con sóng đang chuyển động là chiếc then cài cửa. Lúc ấy, cũng là lúc đoàn thuyền đánh cá ra khơi. Ta có thể dễ dàng thấy một không khí tập thể đầy khí thế và ra khơi là hoạt động thường xuyên diễn ra khi nhà thơ sử dụng hình ảnh “đoàn thuyền” kết hợp từ “lại”. Một không gian đông vui tấp nập đã được gợi ra qua những tiếng hát của người ngư dân làng chài trên biển khơi rộng lớn. “Hát rằng cá bạc biển Đông lặng,Cá thu biển Đông như đoàn thoiĐêm ngày dệt biển muôn luồng sáng,Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!” Nhà thơ đã sử dụng phép liệt kê và nghệ thuật so sánh tinh tế ngợi ca sự giàu có của biển cả quê hương đêm ngày, từng đoàn cá đã dệt nên bức tranh tươi đẹp của biển khơi với muôn luồng sáng ngoài biển. Lời thơ đã thể hiện mong muốn công việc đánh cá thu được thành quả tốt đẹp. Tiếng ca trên biển mang theo khao khát chinh phục biển rộng của những người ngư dân nơi đây. Tiếp theo cảnh ra khơi, bốn khổ thơ sau, tác giả miêu tả cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển bao la, hùng vĩ. Mỗi khổ thơ là một nét vẽ về biển, trời, trăng, sao được thể hiện qua những liên tưởng, sáng tạo mà cũng rất đời sống, hiện thực “Thuyền ta lái gió với buồm trăngLướt giữa mây cao với biển bằngRa đậu dặm xa dò bụng biểnDàn đan thế trận lưới vây giăng” Bằng bút pháp lãng mạn, thi sĩ đã vẽ ra trước mặt người đọc một hình ảnh thật kỳ vĩ, khi trên biển cả mênh mông, vốn là chiếc thuyền sẽ càng trở nên nhỏ bé, thì ở đây chiếc thuyền như hóa lớn hòa nhập với không gian rộng lớn của thiên nhiên. Gió là người cầm lái, trăng là cánh buồm như đưa đoàn thuyền chạm tới mây trời. Trên nền ấy, những người ngư dân cũng như trở thành những người anh hùng của biển khơi. Họ ra đậu tận dặm xa dò trong lòng biển luồng cá để khai thác, và rồi dàn đan thế trận thả lưới vây giăng. Các động từ mạnh được nhà thơ sử dụng đã gợi tả vẻ đẹp lao động, khỏe khoắn, của người ngư dân. Công việc lao động nhọc nhằn của người đánh cá đã trở thành bài ca đầy hứng khởi giữa thiên nhiên. Và người lao động vừa hăng say làm việc vừa chiêm ngưỡng vẻ đẹp của biển cả với bao loài cá “Cá nhụ cá chim cùng cá đé,Cá song lấp lánh đuốc đen hồngCái đuôi em quẫy trăng vàng chóe,Đêm thở sao lùa nước Hạ Long” Nghệ thuật liệt kê “cá chim, cá nhụ, cá đé, cá song” đã phát huy triệt để tác dụng để ngợi ca sự giàu có, thật nhiều tài nguyên của biển khơi đất nước. Biển cả không chỉ giàu mà còn rất đẹp, với ngọn “đuốc đen hồng” cá song đang lao đi trong biển cả dưới ánh trăng lấp lánh. Tác giả đã rất tinh tế khi phát hiện ra chấm tròn đen, hồng trên thân cá song tựa như những ngọn đuốc rực rỡ. Tô thêm vẻ đẹp nơi biển cả, chính là ánh trăng vàng chóe, ánh trăng như dát vàng trên mặt nước để cá quẫy đuôi như quẫy ánh trăng tan ra. Trí tưởng tượng của Huy Cận là vô hạn với tiếp một hình ảnh nhân hóa, “đêm thở”, “sao lùa”. Sao trên trời in hình xuống dòng nước, những con sóng đánh lên, mà tưởng như sao đang lùa dưới đáy đại dương như một sinh vật đang di chuyển, tiếng rì rào của sóng biển chính là tiếng thở của đêm. Sau khi thả lưới và đợi chờ, người ngư dân bắt đầu gõ thuyền, dồn cá vào lưới trong tiếng hát ngân vang “Ta hát bài ca gọi cá vàoGõ thuyền đã có nhịp trăng cao” Đó là tiếng hát khỏe khoắn, vang xa đầy sự lạc quan, niềm vui phấn khởi đã tạo động lực cho người dân chài gọi cá đến mắc lưới. Thiên nhiên dường như cũng thức dậy góp phần sức lực trợ giúp con người. Trong đêm trăng sáng, vầng trăng in mình trên mặt nước, sóng xô bóng trăng vào mạn thuyền khiến nhà thơ tưởng tượng mặt trăng đang giữ nhịp cho tiếng gõ thuyền đều đặn. Hòa với khúc ca lao động, người dân chài cũng cất khúc ca biết ơn, tri ân với biển cả “Biển cho ta cá như lòng mẹNuôi lớn đời ta tự buổi nào” Biển được nhân hóa như lòng mẹ ân nghĩa, thủy chung bao la. Biển cho con người cá, đem đến cuộc sống ấm no bao đời nay, lời hát đã thể hiện tình cảm biết ơn chân thành, sâu sắc của người ngư dân với biển cả quê hương.. Khi sao mờ dần, màn đêm dần dần nhường chỗ cho ánh sáng của một ngày mới thì cũng là lúc người ngư dân bắt đầu kéo lưới, thu hoạch thành quả “Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng,Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đôngLưới xếp buồm lên đón nắng hồng.” Chi tiết đặc tả “ta kéo xoăn tay” đã khắc họa trực tiếp vẻ đẹp khỏe khoắn của con người lao động miền biển. Con người như đang khẩn trương chạy đua với thời gian, những động tác kéo lưới rất căng, rất khỏe, kéo thật mạnh, thật đều tay để thu hoạch được những thành quả tốt nhất. Thành quả ấy chính là “chùm cá nặng”, một hình ảnh tượng trưng cho mùa cá bội thu, một thành quả vô cùng xứng đáng với công sức của những người ngư dân. Cùng lúc ấy, từ phía chân trời bắt đầu bừng sáng, những con cá quẫy dưới ánh sáng rạng đông và lóe lên màu hồng gợi khung cảnh thật rực rỡ, huy hoàng. Phải chăng biển bạc, biển vàng đang ban tặng cho tinh thần lao động miệt mài, hăng say, không biết mệt mỏi của người dân làng chài? Bài thơ kết thúc bằng cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về bến, sau một ngày lao động. trên biển tràn ngập âm thanh tiếng hát của những người ngư dân “Câu hát căng buồm với gió khơiĐoàn thuyền chạy đua cùng mặt trờiMặt trời đội biển nhô màu mớiMắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”. Câu hát vang lên như một điệp khúc suốt từ đầu tới cuối bài thơ, suốt hành trình của người ngư dân. Âm hưởng lời thơ trở nên mạnh mẽ hơn, khỏe khoắn hơn, vút cao bay bổng trong niềm hứng khởi khi tác giả thay chữ “cùng” thành chữ “với”. Tác giả sử dụng bút pháp nhân hóa kết hợp phóng đại khi đặt “đoàn thuyền” sánh ngang, tham gia vào “cuộc đua” với mặt trời. Trong cuộc đua ấy, hình ảnh con người được nâng cao, tầm vóc lớn lao sánh ngang vũ trụ. Đây cũng chính là nét thay đổi trong phong cách sáng tác Huy Cận từ trước Cách mạng tháng Tám đến thời kỳ miền Bắc đã giành hòa bình, đang xây dựng xã hội chủ nghĩa. Khi con người về bến, mặt trời cũng bắt đầu một ngày mới. Những tia nắng hồng ban mai khiến mắt cá lấp lánh như những mặt trời nhỏ trải dài bờ biển đến muôn dặm. Bằng lao động, người dân làng chài đã viết nên bài ca chiến thắng, bài ca cuộc đời mới tươi đẹp. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là một bài thơ đặc sắc thể hiện rõ phong cách của Huy Cận. Bằng bút pháp hiện thực kết hợp lãng mạn, bay bổng, liên tưởng phong phú, sáng tạo, nhà thơ đã ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên hài hòa với vẻ đẹp con người lao động, tạo nên khúc tráng ca hùng tráng, mĩ lệ. Qua đó, Huy Cận đã thể hiện tấm lòng ca ngợi, niềm tự hào về con người mới, cuộc sống mới trong thời kì miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phân Tích Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá Ấn Tượng – Mẫu 5 Năm 1958, sau khi hoà bình được lập lại ở miền Bắc, Huy Cận đã có một chuyến đi thực tế tại Hòn Gai. Trong chuyến đi ấy, ông đã được chứng kiến tinh thần lao động, sự hăng say và niềm vui phấn khởi con người trong công cuộc xây dựng đất nước. Đó là niềm cảm hứng để ông viết lên tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá. Vì thế đã có ý kiến cho rằng “Đoàn thuyền đánh cá” là một khúc tráng ca của người lao động trên biển”. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận được kết hợp bởi hai nguồn cảm hứng là cảm hứng lãng mạn và cảm hứng vũ trụ. Bởi bài thơ được viết khi miền Bắc bước vào thời kì xây dựng mới với niềm vui, niềm hào hứng của những người lao động được làm chủ cuộc đời của mình. Và tại biển Hòn Gai, những người ngư dân ở đây đã hòa mình trong niềm vui ấy, hăng say ra khơi. Đó là lý do người ta gọi Đoàn thuyền đánh cá là một khúc tráng ca của người lao động trên biển. Khúc tráng ca là một từ Hán Việt có ý nghĩa là một ca khúc, một bài hát có nội dung hùng tráng ca ngợi chiến công, kỳ tích của con người, cổ vũ những con người vì việc nghĩa mà dám dấn thân vào những việc nguy hiểm trong khung cảnh tráng lệ và kỳ vĩ của thiên nhiên. Ở đây, những người ngư dân biển đã dám dấn thân mình, bước vào cuộc hành trình đánh bắt cá trong đêm vất vả, gian khổ. Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận đã dựng lên khung cảnh thiên nhiên tráng lệ cùng với khung cảnh hăng say lao động của những người ngư dân “Mặt trời xuống biển như hòn đã cài then đêm sập cửa.” Khung cảnh mở ra đẹp đẽ như một bức tranh sơn mài lộng lẫy và rực rỡ ánh sáng. Mặt trời được so sánh “như hòn lửa” đỏ rực giữa không trung. Đây là một cách so sánh rất độc đáo gợi lên khung cảnh mặt trời đang từ từ lặn xuống và màn đêm bắt đầu buông. Không gian được mở ra vô cùng vô tận, thiên nhiên, vũ trụ như hoà vào cùng nhau. Phép so sánh cũng làm tăng thêm vẻ kỳ vĩ và huy hoàng của thiên nhiên. Không chỉ vậy, ở câu thơ tiếp theo, Huy Cận đã dùng biện pháp nhân hóa “Sóng đã cài then đêm sập cửa” để diễn đạt bước chuyển tiếp của thời gian. Cả vũ trụ bao la rộng lớn bước vào trạng thái nghỉ ngơi. Cái mênh mông to lớn của đêm đen mở ra vô tận, không gian từ trạng thái động chuyển sang tĩnh. Chính lúc ấy mở ra là thời gian, không gian mới của con người. Cảnh thiên nhiên hùng vĩ còn được thể hiện ở cuối bài thơ, khi mà con người trở về sau một đêm vất vả “Mặt trời đội biển nhô màu mới” Nếu như ở những dòng đầu tiên là khung cảnh mặt trời lặn thì ở đây là khung cảnh của bình minh khi mặt trời đã thức giấc. Mặt trời như đội cả biển cả mênh mông để nhô lên trong màu áo mới rực rỡ “nắng hồng”. Khung cảnh thiên nhiên trong bài thơ được miêu tả hết sức tráng lệ và rực rỡ. Nổi bật trên khung cảnh đó là sự lao động hăng say của con người. Họ hăng say lao động, cố gắng cống hiến hết mình cho công cuộc xây dựng của Tổ quốc để từ đó làm nên khúc tráng ca bất tận của những người lao động trên biển. Đầu tiên phải kể tới đó là khi những người lao động đó bắt đầu hành trình đánh bắt cá của mình. Họ dong buồm ra khơi với một tinh thần phấn khởi, say mê, trong tiếng hát vui mừng “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơiCâu hát căng buồm cùng gió khơi” Từ “lại” trong câu cho thấy, đây không phải là lần đầu tiên ra khơi của họ mà chỉ là công việc thường ngày họ vẫn hay làm. Gió thổi, màn đêm buông là khi họ “căng buồm”, dong con thuyền lớn ra khơi đánh cá. Và công việc của họ đã bắt đầu như thế, cùng với tiếng hát, họ cất lời ca gọi cá vào. Tiếng ca chứa chan khao khát chinh phục biển cả, khao khát được làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời “Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!” Khung cảnh tiếp theo là khung cảnh mà đoàn thuyền bắt đầu công việc đánh cá của mình. Giữa một không gian bao la của biển, trời, trăng, sao, vốn con thuyền hiện lên sẽ thật nhỏ bé nhưng ở đây, nó lại được thổi bùng thành một con thuyền to lớn mà hoà nhập với thiên nhiên, vũ trụ “Thuyền ta lái gió với buồm trăngLướt giữa mây cao với biển bằngRa đậu dặm xa dò bụng biểnDàn đan thế trận lưới vây giăng” Bằng bút pháp lãng mạn, Huy Cận đã vẻ lên một hình ảnh đẹp kỳ vĩ. Con thuyền của người ngư dân giờ đây được gió cầm lái, ánh trăng trở thành cánh buồm, con thuyền như được bay cao, chạm tới tận trời cao, vũ trụ thênh thang. Và những người ngư dân, họ là những người anh hùng của biển cả. Giữa biển cả to lớn ấy, họ trở thành chủ nhân, “ra” tận “dặm xa” để thăm dò luồng cá rồi “dàn đan thế trận” mà đánh bắt cho đầy khoang. Họ làm việc hăng say, miệt mài với mong ước là từng loài cá quý hiện lên trong niềm vui sướng “Cá nhụ cá chim cùng cá đéCá song lấp lánh đuốc đen hồngCái đuôi em quẫy trăng vàng chóeĐêm thở sao lùa nước Hạ Long” Nghệ thuật liệt kê cho thấy sự giàu có của biển cả quê hương ta với muôn loài cá quý hiếm. Sau khi thả lưới, người ngư dân chờ đợi trong tiếng gõ thuyền gọi cá vào “Ta hát bài ca gọi cá vàoGõ thuyền đã có nhịp trăng caoBiển cho ta cá như lòng mẹNuôi lớn đời ta tự thuở nào” Tiếng hát khỏe khoắn trong niềm phấn khởi của người ngư dân là bài ca gọi cá vào lưới. Thiên nhiên như bắc nhịp cầu, “nhịp” cho tiếng gõ gọi cá ấy. Bài ca gọi cá cũng là bài ca biết ơn biển cả đã cho ta nguồn sống, “nuôi lớn” chúng ta. Khi trời đang dần về sớm, “sao mờ” thì cũng là lúc người ngư dân bắt đầu thu lưới. “Sao mở, kéo lưới kịp trời sángTa kéo xoăn tay chùm cá nặngVảy bạc đuôi vàng loé rạng đôngLưới xếp buồm lên đón nắng hồng”. Hình ảnh “kéo xoăn tay” cho thấy sự khỏe khoắn của những con người lao động trên biển. Họ đang nhanh tay “chạy đua” cùng với mặt trời, cùng với thời gian để trở về bến. Và kết quả là một mùa cá bội thu, xứng đáng với công sức mà người ngư dân đã bỏ ra. Dưới ánh sáng của rạng đông với màu hồng rực rỡ, từng đàn cá với “vảy bạc đuôi vàng” lấp lánh dưới ánh nắng ban mai. Kết thúc là hình ảnh của người ngư dân đang bơi thuyền trở về sau một đêm vất vả “Câu hát căng buồm cùng gió khơiĐoàn thuyền chạy đua cùng mặt trờiMặt trời đội biển nhô màu mớiMắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” Câu hát lại vang lên trong niềm say mê, đoàn thuyền “chạy đua” với “mặt trời” để trở về bến. Tầm vóc của con người đã được nâng lên, sánh với vũ trụ mênh mang. Một khoang thuyền đầy cá là một chiến công, kỳ tích với những người ngư dân biển khi họ đang bước vào thời kì xây dựng đất nước. Đây cũng là niềm vui, niềm phấn khởi của họ khi được làm chủ cuộc đời mình. Không chỉ vậy, âm điệu, âm hưởng của lời thơ cũng là một lý do khiến cho bài thơ trở thành một khúc tráng ca bất tận. Nhịp thơ năm chữ với tiết tấu nhanh, mạnh, dồn dập giọng điệu sôi nổi, say mê đã khiến bài thơ như một khúc ca vang vọng trong lòng mỗi chúng ta. Đặc biệt Huy Cận còn dùng rất nhiều từ “hát” như để hoà vào khúc ca trong thơ ông, thể hiện niềm vui tươi, yêu đời, lạc quan đồng thời thể tình yêu cuộc sống và niềm vui được làm chủ cuộc đời mình. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá khép lại nhưng âm vang của nó vẫn còn ngân mãi trong lòng chúng ta. Bởi trong đó chứa đựng chiến tích của những người ngư dân biển, của những con người dám đối mặt với thiên nhiên để tạo nên những kỳ tích tuyệt vời. Có thể khẳng định rằng Đoàn thuyền đánh cá là một khúc tráng ca của người lao động trên biển.
Đang tải.... xem toàn văn Thông tin tài liệu Ngày đăng 31/03/2016, 1422 Phân tích khổ 2 của bài thơ Hát ca ngợi sự giàu có của biển1. Mở bài Tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác. Khái quát nội dung, nghệ thuật . Giới thiệu khổ thơ > chép lại khổ thơ Thân bàia. Khái quát Đây là khổ thơ thứ 2 của bài thơ. Bằng những hình ảnh đẹp, nhà thơ đã khắc họa hình ảnh người lao động giữa biển khơi. Họ ra biển mang theo câu hát. Câu hát theo họ cả quá trình lao động. Họ hát để ca ngợi sự giàu có của biển cả, ca ngợi cuộc sống Phân tíchHát rằng cá bạc biển Đông lặngCá thu biển Đông như đàn thoi Phân tích khổ thơ Hát ca ngợi giàu có biển Mở - Tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác Khái quát nội dung, nghệ thuật Giới thiệu khổ thơ -> chép lại khổ thơ Thân a Khái quát Đây khổ thơ thứ thơ Bằng hình ảnh đẹp, nhà thơ khắc họa hình ảnh người lao động biển khơi Họ biển mang theo câu hát Câu hát theo họ trình lao động Họ hát để ca ngợi giàu có biển cả, ca ngợi sống b Phân tích Hát cá bạc biển Đông lặng Cá thu biển Đông đàn thoi Câu thơ mang tính khái quát cao Hai từ "cá bạc" vừa mang nghĩa tả thực, vừa mang nghĩa tượng trưng Cá bạc tên loài cá có nhiều biển Đông Từ "bạc" màu sắc vảy cá Màu sáng vảy cá phản chiếu qua ánh đèn, qua ánh trăng tạo nên màu sáng lấp lánh ánh bạc Câu thơ gợi lên liên tưởng tới giàu có, phong phú biển Hạ Long Có lẽ ý thơ khơi nguồn từ thành ngữ "Rừng vàng biển bạc" Thành ngữ diễn tả xác giàu có biển HL Đó kho tài nguyên vô tận với nhiều, nhiều loại cá Chúng “dệt” nên màu trắng bạc từ lòng biển bao la đến mặt biển xanh thẳm Đó kho cải vô tận mà người khám phá để làm giàu cho đất nước Nếu câu có mang tính khái quát cao câu thơ miêu tả trực tiếp loài cá thu Đó loài cá có nhiều mang giá trụ kinh tế cao Lời thơ gợi liên tưởng thú vị cá thu bơi lội trông giống thoi, đoàn cá thu đoàn thoi Lời thơ giúp ta hình dung hình dáng thon dài, khỏe cá thu Chúng chuyển động tư tạo nên mọt giới lung linh, sống động Đêm ngày dệt biển muôn luống sáng Những cá thu sức dệt lên thảm khổng lồ Đó thảm kì diệu với “muôn luồng sáng” Cả không gian mênh mông bao la rộng lớn dù ngày hay đêm sáng bừng lên chiếu sáng thảm kì diệu Nhưng thảm không trạng thái tĩnh mà chúng luôn chuyển động Vì vậy, khoảnh khắc lại biến đổi mang vẻ đẹp kì lạ riêng Đó thảm bình thường mà thảm dệt lên từ sống biển Phải thật tinh tế yêu biển vô nhà thơ có cảm nhận Từ việc cảm nhận vẻ đẹp giàu có biển, người dân chào cất lên tiếng gọi tha thiết, trìu mến Đến dệt lưới ta đoàn cá Câu thơ gợi hình ảnh liên tưởng thú vị Thực chất công việc người đánh cá vất vả, khó nhọc Người ngư dân phải sử dụng đến trang thiết bị đại Nhưng thơ ngư dân đánh bắt cá mà họ hát để gọi cá vào lưới Tiếng hát họ động lực kì diệu khiến cho công việc đánh bắt cá trở nên nhẹ nhàng thi vị vô Có thể thấy hình ảnh thơ Huy Cận độc đáo, sáng tạo đến bất ngờ Cá biển "dệt biển" Cá vào lưới "dệt lưới" Những lưới dệt lên cá thành vô to lớn mà người ngư dân gặt hái sau đêm lao động vất vả Vất vả họ hào hứng, phấn khởi, lạc quan, yêu đời Câu hát họ vang lên ca ngợi vẻ đẹp giàu có biển khơi Biển khơi gắn liền với đời họ Họ thực trở thành người làm chủ để khám phá kho tài nguyên vô tận làm giàu cho đất nước c Đánh giá nâng cao Đoạn thơ với hình ảnh chân thưc, kết hợp với hình ảnh khoa trương giúp người đọc cảm nhận vẻ đẹp giàu có biển HL, cảm nhận vẻ đẹp ngư dân biển Đoạn thơ giúp ta thêm tin, thêm yêu vào người, đời sống hôm Kết Khẳng định giá trị thơ, đoạn thơ Liên hệ thân ... người đánh cá vất vả, khó nhọc Người ngư dân phải sử dụng đến trang thiết bị đại Nhưng thơ ngư dân đánh bắt cá mà họ hát để gọi cá vào lưới Tiếng hát họ động lực kì diệu khiến cho công việc đánh. .. công việc đánh bắt cá trở nên nhẹ nhàng thi vị vô Có thể thấy hình ảnh thơ Huy Cận độc đáo, sáng tạo đến bất ngờ Cá biển "dệt biển" Cá vào lưới "dệt lưới" Những lưới dệt lên cá thành vô to lớn.. .thơ giúp ta hình dung hình dáng thon dài, khỏe cá thu Chúng chuyển động tư tạo nên mọt giới lung linh, sống động Đêm ngày dệt biển muôn luống sáng Những cá thu sức dệt lên thảm khổng lồ - Xem thêm -Xem thêm Phân tích khổ 2 của bài thơ Đoàn thuyền đánh cá, Phân tích khổ 2 của bài thơ Đoàn thuyền đánh cá, Từ khóa liên quan phân tích khổ 2 của bài thơ nói với con phan tich kho 2 cua bai tho vieng lang bac phân tích khổ 2 của bài thơ vội vàng phân tích khổ 2 của bài thơ sang thu cam nhan cua em ve kho tho 3 cua bai tho doan thuyen danh ca y nghia cua bai tho doan thuyen danh ca cam nhan 4 cau dau cua bai tho doan thuyen danh ca suy nghi cua em ve 4 cau dau cua bai tho doan thuyen danh ca nội dung của bài thơ đoàn thuyền đánh cá phan tich kho 2 bai tho doan thuyen danh ca phân tích khổ 2 của bài đoàn thuyền đánh cá phân tích khổ 1 của bài thơ nói với con phân tích khổ đầu của bài thơ nói với con phan tich bai tho doan thuyen danh ca kho dau phan tich bai tho doan thuyen danh ca cua huy can khảo sát thực tế giảng dạy tiếng nhật không chuyên ngữ tại việt nam khảo sát các chương trình đào tạo theo những bộ giáo trình tiêu biểu xác định mức độ đáp ứng về văn hoá và chuyên môn trong ct đặc tuyến mômen quay m fi p2 đặc tuyến tốc độ rôto n fi p2 đặc tuyến dòng điện stato i1 fi p2 sự cần thiết phải đầu tư xây dựng nhà máy thông tin liên lạc và các dịch vụ từ bảng 3 1 ta thấy ngoài hai thành phần chủ yếu và chiếm tỷ lệ cao nhất là tinh bột và cacbonhydrat trong hạt gạo tẻ còn chứa đường cellulose hemicellulose chỉ tiêu chất lượng theo chất lượng phẩm chất sản phẩm khô từ gạo của bộ y tế năm 2008
phân tích khổ 2 bài đoàn thuyền đánh cá